Thứ Hai, 7 tháng 4, 2014

Yêu là hy sinh vì nhau

hình ảnhL designs.vn
nội dung: goiyeu.com


Sự thật thú vị về vũ trụ (phần 1):




1) To béo, nhưng mà nhẹ tênh
Nếu thả Sao Thổ xuống nước thì nó sẽ nổi trên bề mặt. Khối lượng riêng của nước khoảng 1 000 kg/m³, còn khối lượng riêng của Sao Thổ là khoảng 687 kg/m³. Nếu bạn có thể tìm được một cái bể nước đường kính không dưới 60 nghìn km thì có thể kiểm chứng.

2) Vĩnh biệt bạn hiền…
Mặt Trăng đang dần xa Trái Đất. Mỗi năm Mặt Trăng tách khỏi Trái Đất khoảng 4cm. Có rất nhiều lý do, ví dụ như chu kỳ quay của Trái Đất chậm đi 2 mili giây mỗi ngày. Các nhà khoa học không biết Mặt Trăng được tạo nên từ đâu, có người cho rằng đó là một miếng từ Trái Đất bị bật ra vì một vật thể vũ trụ đập vào bề mặt từ nhiều tỉ năm trước.

3) Ánh sáng từ quá khứ
Ánh sáng Mặt Trời mà các bạn đang thấy có tuổi thọ vài nghìn năm. Năng lượng chúng ta nhận được được tạo nên trong tâm Mặt Trời từ vài nghìn năm trước – đó là khoảng thời gian mà hạt photon “phi ra” từ tâm đến bề mặt. Sau đó chúng tiến đến Trái Đất chỉ trong khoảng 7-8 phút. Nhiệt độ tâm Mặt Trời hơn 13 triệu độ C. Và tất cả năng lượng được tạo nên đầu tiên phải qua rất nhiều lớp mới đến được bề mặt.

4) Bít tết nướng
Mùi của vũ trụ đượm hương lên quần áo cùa các phi hành gia, khi họ vào bên trong trạm không gian và trút bỏ bộ quần áo, ngay lập tức một mùi xộc vào mũi họ. Họ ví mùi của vũ trụ như là "mùi hăng của bít tết nướng trên lò bằng sắt, mùi kim loại nóng và khói hàn".

5) Trái Đất trong mắt người ngoài hành tinh
Nếu người ngoài hành tinh ở cách chúng ta 65 triệu năm ánh sáng đang nhìn vào Trái Đất bằng kính viễn vọng, thì họ sẽ nhìn thấy khủng long.

Trang phục của Pakistankistan


Theo Wikimedia, trang phục truyền thống của Pakistankistan gồm có Sherwani và Shalwar kameez.
A.    Shalwar kameez
1.      Lịch sử
Do điều kiện lịch sử, địa lý, trang phục truyền thống của Pakistan là sự pha trộn giữa trang phục của Ấn Độ và trang phục của khu vực Trung Á, thể hiện sự pha trộn của các ý thức hệ khác nhau của người dân nước này.
"Salwar Kameez" có một lịch sử từ thế kỷ 12, thời gian của đế quốc Mughal. Salwar Kameez chính được cho là có nguồn gốc từ quần áo được mặc bởi các bộ lạc gốc Thổ Nhĩ Kỳ, người đã dẫn dắt một con ngựa cưỡi cuộc sống ở vùng đồng bằng lớn của Trung Á. Hầu hết các bộ lạc cải sang đạo Hồi.
Kể từ thế kỷ 12, khu vực này đã được thường xuyên xâm lược từ bên ngoài. Cuối cùng, một chế độ của người Iran gốc Thổ Nhĩ Kỳ (Delhi vương quốc Hồi giáo, sau đó thực hiện trên của đế chế Mughal) được thành lập trong lĩnh vực ngày nay là Bắc Ấn Độ và Pakistan.
Kết quả là, Salwar đến được đeo như một trang phục truyền thống. Ngày nay, người của các tôn giáo khác nhau, không nhất thiết phải người Hồi giáo, mặc trang phục này trong cuộc sống hàng ngày.

Loại áo như kameez truyền thống được biết đến trong nhiều nền văn hóa khác nhau, theo Dorothy Burnham,
Bảo tàng Hoàng gia Ontario , loại "áo liền mạch," dệt trên cùng một mảnh trên khung dệt, đã được thay thế trong thời La Mã đầu bằng một cách thức dệt khác, sau đó ráp lại để không lãng phí bất kỳ mảnh vải nào. Loại áo sơ mi bông vào thế kỉ thứ 10 được tiếp thu từ sa mạc Ai Cập cũng được cắt may giống kameez truyền thống.
Ngày nay, giới trẻ Pakistan đang dần chấp nhận sự du nhập từ nước ngoài, làm phát triển thêm sự phong phu về trang phục tại nước này.
2.      Cấu tạo
Kameez shalwartrang phục quốc gia của Pakistan và được mặc bởi những người đàn ông và phụ nữ trong tất cả bốn tỉnh Punjab , Sindh , Baluchistan , Khyber PakhtoonkhwaFATA trong nước và trong Azad Kashmir. Mỗi tỉnh có phong cách riêng của mình khi mặc Shalwar Kameez, từ màu sắc, thiết kế đến loại vải( lụa, voan, cotton)

Shalwar kameez gồm hai phần, quần shalwar và áo kameez.
Shalwars là quần rộng được thiết kế với nhiều phong cách khác nhau. Các shalwar được mặc ngang thắt lưng và thắt lại bằng dây rút. Dáng quần tương tự như hai cái phẽu, lưng quần rộng, nhỏ dần đến mắt cá chân, gần như ôm trọn. Gần đây hơn, đang phát triển loại quần dây thun, có tính co giãn cao. Do đặc tính lưng quần rộng, nên shalwar thích hợp cho tất cả mọi người. Theo chiều hiện đại, xu hướng là cả chiếc quần ôm dáng và hẹp hơn. Loại Shalwars bó hẹp được gọi là churidars.

Kameez là loại áo lớn, thân đứng và rộng rãi, mặc cùng với shalwar rộng thùng thình. Nam giới cũng như phụ nữ mặc trang phục giống nhau, sự khác biệt là ở màu sắc của vải, độ bóng, dáng áo và các chi tiết trang trí được sử dụng. Kameez như loại áo sơ mi thân liền, dáng dài, có thể được chia làm hai hoặc 3 tà áo. Cổ áo theo phong cách phương Tây. Tay áo dài. Hai bên có đường xẻ. Kameez được cắt phẳng và thẳng, phía cổ áo cắt bằng một đường viền cổ áo sâu, may trong các loại vải trong mờ, hoặc theo kiểu nắp trong tay áo hoặc tay thiết kế. Các đường nối bên kameez có thể được chia lên đến đùi hoặc thậm chí vòng eo, và nó có thể được mặc cùng với các salwar thấp. Một trong những kí thuật nổi bật khi làm kameez là kĩ thuật may nổi, hay kĩ thuật viền vàng lên các tấm vải.

Đối với nữ giới, một bộ trang phục hoàn chỉnh, bao gồm shalwar kameez, dupatta. Dupatta là loại khăn lớn, màu sắc, được trang trí rất đẹp thường đi thành bộ chung với shalwar kameez, thường làm bằng bông hoặc lụa..Đối với phụ nữ Hồi giáo, Dupatta là một thay thế nhẹ hơn để Chador hoặc burqa. Đối với phụ nữ Ấn Độ giáo, Dupatta là rất hữu ích khi người đứng đầu phải được bảo hiểm, như trong đền thờ hoặc trong sự hiện diện của những người lớn tuổi. Dupatta là đơn giản và phong cách và có thể được chỉ đơn giản là đeo trên vai hoặc quấn quanh ngực và trên vai của bạn.

Shalwar kameez và lehenga là trang phục truyền thống được mặc bởi phụ nữ ở Pakistan. Trong khi shalwar kameez được đeo mặc hàng ngày, lehenga là một trang phục điển hình cho các nghi lễ và những dịp đặc biệt. Ren được sử dụng để thêm yếu tố nữ tính cho lehenga. Lehenga là một hình thức của chiếc váy là dài, thêu và xếp li, được đeo như phần dưới, được đảm bảo ở thắt lưng và rời khỏi lưng và bụng trần.
3.       
Cách mặc
Cả phụ nữ và đàn ông đều mặc shalwar kameez.
Đàn ông mặc kameez shalwar cùng với vest hay sherwani. Phía dưới mang một đôi dép khussa. Tại các vùng có khí hậu lạnh hơn, đàn ông có thể sử dụng thêm pashmina hoặc shahtoosh làm khăn choàng để giữ ấm.
Phụ nữ cũng mặc một dupatta  với cả hai kameez shalwar và lehenga. Phụ nữ cũng mặc chiếc khăn hoặc khăn choàng với kameez salwar trong những mùa đông lạnh lẽo.
Phụ nữ Pakistan thích mặc đồ trang trí hoặc đồ trang sức vàng, bao gồm lắc tay, vòng tay, nhẫn, và dây chuyền. Đồ trang trí đơn giản được mặc hàng ngày, trong khi những người sang trọng hơn, với các thiết lập của đá quý, được đeo ở đám cưới và lễ khác. Những đồ trang trí quý giá thường được truyền qua nhiều thế hệ như vật gia truyền. Thường vào những dịp lễ hội, mehendi, hoặc áp dụng một dán làm từ cây lá móng mà khô trong tinh tế, thiết kế phức tạp trên lòng bàn tay, được chưng diện bởi một số phụ nữ và trẻ em gái trong cộng đồng.
Shalwar Kameez được mặc như thế nào phụ thuộc vào vị trí địa lý và tôn giáo.
Trong từng khu vực, người Balochi mặc shalwar kameez vải dày với shalwar rất rộng để ngăn chặn bản thân khỏi gió nóng khô sa mạc . Người Balochi đội khăn xếp làm bằng vải rất dài, thường có màu trắng để ngăn chặn đầu của họ từ ánh sáng mặt trời. Người Sindhi mặc shalwar kameez với mũ truyền thống thiết kế đẹp được làm bằng vật liệu địa phương. Người Punjabi đàn ông mặc kameez shalwar đơn giản, Kurta shalwar và Dhoti kurta theo khí hậu Punjabi. Khăn xếp của một miếng vải mỏng cũng được sử dụng với shalwar kameez đặc biệt là ở các vùng nông thôn của bang Punjab, nơi nó được gọi là Pagri . Khussa cũng được sử dụng với Dhoti Kurta. Trong trang phục của người Pashtun , mặc truyền thống Peshawari Chappal trong bàn chân và Pakul với shalwar kameez. Người Kashmiri sử dụng Pheran, [3] Shahmina , ShahtooshJamavar mà làm cho họ ấm áp trong khí hậu lạnh của Kashmir.
Đối với phụ nữ, phụ nữ Balochi mặc shalwar kameez nặng thêu và Dupatta theo các điều kiện thời tiết. Họ mặc kameez đầy nặng thêu công việc Shisha. Trang phục Sindhi có phong cách khác nhau của nghề thêu và một số phụ nữ sử dụng Ajrak như Dupatta. những người phụ nữ cũng mặc vòng đeo theo cách truyền thống của họ. Phụ nữ Punjabi thích thêu sáng đơn giản shalwar kameez hoặc Kurta. Lacha và Lắc tay truyền thống cũng được sử dụng. Paranda là truyền thống, đầy màu sắc và độc đáo mục Punjabi đặc biệt được sử dụng để buộc tóc. Phụ nữ Pathan mặc thêu kameez với một farak với một Dupatta nặng.
4.      Chất liệu
Chất liệu cho Shalwar Kameez thường là vải bông, lụa, len, crepe hay geogrette. Crepe salwar kameez cũng khá phổ biến. Crepe là một loại vải nhăn kết cấu mỏng chảy. Crepe dành cho kameez salwar có nhiều màu sắc và sắc thái. Lụa là một loại vải thường dành cho những dịp quan trọng. Vài bông thường dành cho mùa hè, và len dành cho mùa đông.
B.     Sherwani
1.      Lịch sử
Sherwani có nguồn gốc ở khu vực Nam Á, xuất phát từ trang phục hoàng gia Ấn Độ khi là thuộc địa Anh vào thế kỉ 18. Sau đó được lan truyền từ trên xuống, từ quí tộc dần đến tầng lớp dân chúng. Đến ngày nay, Sherwani đã được coi như một trong những trang phục truyền thống ở Pakistan. Đồg thời còn là biểu tượng cho giới quý tộc Hồi giáo, trước khi độc lập.
Sherwani có liên quan mật thiết với những người sáng lập của phong trào Aligarh. Một trong những người có ảnh hưởng mang tính quyết định đến việc phổ biến của Sherwani là nhà sáng lập nên Cộng hoà Pakistan, Mohammad Ali Jinnah. Với sở thích ăn mạc theo phong cách phương Tây, ông thường xuyên mặc Sherwani cùng với khăn xếp sau khi Pakistankistan được độc lập. Sau đó ông cũng thống nhất nhân viên chính phủ mặc Sherwani màu đen chính thức trong các ngày lễ quốc gia.
Sherwani hiện nay, thịnh hành đặc biệt trong giới trí thức tại Pakistan. Có thể kể đến nhà khoa học vật lý Hồi giáo, TS Abdul Salam đã mặc Sherwani trong buổi trao giải Nobel của mình.
2.      Cấu tạo
Sherwani là một dạng áo thân dài, theo phong cách của Nam Á, có hình dáng giống với Achkan hay loại áo chẽn có tay. Sherwani là một chiếc áo khoác dài mặc cùng với một shalwar và thường được làm từ các loại vải nặng. Sherwani được xem như sự kết hợp giữa Shalwar Kameez với áo choàng của người Anh. Cổ áo phải cao và tay áo luôn là kiểu tay dài. Áo có từ hai đến ba tà áo. Dáng áo luôn cứng, tạo cảm giáo sang trọng, nghiêm trang, lộng lẫy.
Sherwani có thể được sử dụng bởi cả nam và nữ, tuy nhiên, Sherwani chủ yếu vẫn được mặc bởi nam giới. Đối với phụ nữ, Sherwani cũng được cắt theo dáng, nhưng vẫn không ôm sát.
Do Sherwani thường được mặc trong các dịp lễ, nên trang trí trên thân áo cũng lộng lẫy hơn. Thường là các hoạ tiết thêu tay tinh xảo, đính các các loại hạt cườm, đá quý. Hoa văn trên áo cũng đa dạng và phong phú về kiểu thức. Tuy nhiên do theo Hồi giáo, nên chủ yếu các hoa văn này đều là hình ảnh của thiên nhiên, hoặc các hoa văn hình học.
Sherwani là nguồn gốc cho loại deepak perwani Sherwani, ngắn hơn, thường ít cầu kì, nhưng nghiêm túc hơn Sherwani
Một sự khác biệt giữa Sherwani trong thói quen trang phục giữa Pakistan và Ấn Độ là người Pakistan thích mặc Sherwani chung với Shalwar, trong khi người Ấn thích mặc chung với churidars.
3.      Chất liệu
Chất liệu vải thường là loại vải hơi cứng, nhưng thoáng, thấm hút mồ hôi tốt. Đặc biệt là loại lụa Benarasi, lụa thêu với các trang trí thủ công đầy màu sắc, kiểu dáng phong phú, dễ nhuộm màu. Tuy nhiên, loại lụa này hiện đang chịu sự cạnh tranh từ lụa Trung Quốc mỏng và dễ chịu hơn so với lụa Benarasi nặng dày. Ngoài ra, còn có vải bông, vải lanh, lụa Malka hay các loại vải mới từ phương Tây.
Nguồn:
1.      Wikimedia: Shalwar Kameez, Folk cotsume, Sherwani
2.      National dress of Pakistan - http://heritage.pk/national-dress-of-Pakistankistan

5.      Cotsume and culture http://psabelgium.be/?p=199

ps: đây là phần mình tổng hợp lại. mong giúp dc m.n

Tranh lụa VN - p2 end


Các họa sĩ Việt Nam nổi tiếng với tranh luạ
Nguyễn Phan Chánh (1892-1984) được coi là họa sỹ đã khai phá loại hình tranh lụa hiện đại Việt Nam. Những bức vẽ thành công của ông có một phong vị đặc biệt Việt Nam, đồng thời phù hợp với quan niệm hội họa hiện đại: những mảng màu đơn giản, ấm áp, nhuần nhị, những đường viền mềm mại, những khoảng trống rất đúng chỗ. Ngoài ra, nhân vật và bối cảnh Việt Nam được nghiên cứu đơn giản và cách điệu độc đáo. Thành công của ông đã lôi cuốn các bạn cùng lứa và các họa sỹ thuộc lớp sau, mỗi người đã đóng góp làm phong phú thêm kỹ thuật vẽ tranh lụa.
Mai Trung Thứ, Lê Phổ, Lê Thị Lựu là những người sống ở Paris, trung tâm hội họa thế giới với đủ trường phái tân kỳ, nhưng họ vẫn vẽ tranh lụa, góp phần cất lên một tiếng nói nghệ thuật độc đáo của Việt Nam.
Sau Cách mạng tháng Tám, số họa sỹ vẽ tranh lụa đông hơn. Họ mở rộng hơn đề tài, kỹ thuật và đã có những thành công mới. Nguyễn Thụ là một họa sỹ chuyên nhất về tranh lụa, có một phong cách riêng biệt. Bố cục tranh của ông đơn giản, nhịp nhàng, màu sắc mát mẻ êm dịu; bút pháp phóng khoáng, nhẹ nhàng; không gian mờ ảo thơ mộng với những nhân vật bình dị, thân quen... Một số nữ họa sỹ khác như Vũ Giáng Hương, Lê Kim Mỹ, Trần Thanh Ngọc, Mộng Bích, Kim Bạch, Đặng Thu Hương... cũng đã có nhiều thành công với tranh lụa.
Tác phẩm
Nếu tranh Trung Quốc thường là tranh dọc, khổ đứng thì tranh lụa Việt Nam nói riêng, tranh sơn mài, sơn dầu, tranh khắc… nói chung có bố cục thường nằm ngang hay nằm từ dưới lên. Bố cục này khẳng định khí chất của người Việt Nam, một dân tộc hơn nghìn năm luôn đối đầu với chiến tranh, một ước mơ mà con người luôn đứng lên làm chủ, vươn tới hoà b́nh độc lập tự do. Một lối thể hiện nhằm nói lên tính chất hùng tráng, một sức sống tiềm tàng luôn thôi thúc cháy bỏng, một cuộc sống chan chứa tình người, giữa sự sống và cái chết, nên đề tài của các hoạ sĩ hiện đại Việt Nam thường đề cập đến cuộc kháng chiến, động viên giáo dục, thực tiễn đáp ứng theo xu thế thời đại.
Bức Dân công sửa đường chiến dịch Điện Biên Phủ (1974) của Trần Thanh Ngọc, bố cục sắp xếp các mảng sáng tối chạy trong tranh tạo nhịp điệu. Tất cả nhân vật phần đông đều màu sậm, một vài nhân vật bị mất phần đầu song tác giả đă ưu tiên cho nhóm chính là hai cô gái đang mải mê lao động, đằng sau nữa là những anh bộ đội hành quân. Tuy mỗi người một nhiệm vụ nhưng nhịp điệu và không khí bức tranh đă nói lên một tình cảm thầm kín…Cũng một bố cục sắp xếp sự chuyển nhịp của mảng sáng tối, Trần Lưu Hậu chọn mảng sáng của trời, độ sáng y phục của nhân vật và các chùm hoa trên cành cây tạo nhịp chạy của tranh. Một số tác phẩm có sử dụng luật phối cảnh nhằm tạo không gian thực, cảm giác thực cho người xem như Mẹ con của Lê Thị Lựu, Bế Văn Đàn của Lê Vinh, Du kích địch hậu chống càn của Trịnh Pḥng. Những tác phẩm như vậy thường phản ánh tính chất hiện thực.
Tranh lụa Việt Nam được các hoạ sĩ khai thác màu sắc khá phong phú, nhiều lúc sự vật trong tranh được tác giả cường điệu khác với hiện thực tế nhằm hướng người xem vào trọng tâm bức tranh. Chẳng hạn Trên nhà sàn của Nguyễn Thụ: những ngôi nhà chỉ là mảng bẹt, một màu hồng nhẹ, khoảng cách được tạo bởi các mảng màu xanh đen, màu cô ban vẽ rất mỏng, màu rêu đất, một than cây khẳng khiu với vài cành uốn lượn mệm mại màu đen phá vỡ sự hoang lạnh của một vùng miền núi…
Tác phẩm Mẹ con của Lê Thị Lựu vẽ theo trường phái ấn tượng, tạo một khả năng diễn tả không khí sôi động với màu sắc thực của thiên nhiên, hoà sắc phối hợp nhuần nhuyễn tạo ra bề dày của không khí cộng với sự tương tác màu của các sự vật trong không gian.
Tác phẩm đọc tin chiến thắng của Lương Xuân Nhị cho thấy một khả năng phối màu tuyệt vời trong tranh lụa không thua kém các chất liệu khác. Trong một mảng ta có thể nh́ìn ra rất nhiều màu sắc khác nhau phối hợp mà vẫn giữ được sự trong sạch của chất lụa. Với gam màu vàng chủ đạo, ông đă sử dụng thêm nhiều mảng màu khác nhau: nâu đất, nâu đen, nây xanh cô ban, nâu lam, nâu cam, trắng vàng…tất cả các mầu hầu như có ngả màu vàng. Ngoài ra còn có các màu xanh lá, xanh rêu, tím nhạt…tất cả đều hoà quyện nhau không cho cảm giác chói màu. Những nhân vật được nhấn đậm lên vài độ…nhằm tập chung nhãn quan.
Nguyễn Phan Tránh là hoạ sĩ của làng quê, trong tranh ông luôn có một gam màu nây ṣáng. Trong các mảng đậm ta thấy sự lung linh của sắc màu xanh, tím, rêu, đỏ…Gần đây các hoạ sĩ còn cường điệu màu sắc vật  thể mạnh mẽ để tạo ấn tượng: như bức Bản làng màu đỏ của Nguyễn Lệ Dung, màu trắng của hoa, màu xanh của núi, màu đỏ của đất…, tác phẩm Đêm mùa hạ của Nguyễn Hoàng Anh, màu đỏ tím của hoa giấy đặt cạnh mảng màu lớn cô ban hoà một chút đen diễn tả không khí trong pḥng, một thiếu nữ ngồi búi tóc màu xanh cô ban nhẹ hơn. Màu sắc bức tranh gợi cho người xem như một sự trông chờ thầm kín…
Mỗi khi nói đến tranh của các hoạ sĩ phương Đông, chúng ta lại nghĩ ngay đến đường nét. Tranh của Việt Nam có thủ pháp riêng không giống tranh khắc của Nhật Bản cũng không giống tranh lụa của Trung Quốc. Đường nét được biến đổi lúc đậm lúc nhạt nhoè vào mảng màu để tạo khối, tạo không gian, tạo khoảng cách. Nó cũng là điểm nhấn cần thiết gần với cách vẽ nghiên cứu hình hoạ. Các tác phẩm: Con đọc bầm nghe của Trần Văn Cẩn, Du kích địch hậu chống càn của Trịnh Pḥng, Hàn quân mưa của Phan Thông lối vẽ kết hợp giữ thuỷ mặc Trung Quốc với sự xúc tác của mảng nét là cái duyên trong tranh của ông, khi thể hiện phong cách đó trong đề tài vẽ tranh về phụ nữ miền cao, nhân vật hiện lên trong tranh đầy đủ  chất lăng mạn, dịu dàng du dương, nhân vật trở nên duyên dáng bởi cách thể hiện, như bức bên Bếp lửa.
Phần nhiều hoạ sĩ Việt Nam thể hiện đường nét rất thoải mái, đường nét và chi tiết đều được sử dụng bằng cọ (cọ vẽ sơn dầu). Lê Văn Đệ trong tác phẩm Bên cầu ao đă sử dụng những giới hạn của các mảng màu để tạo nên đường nét mềm mại của thiếu nữ duyên dáng chải tóc bên cầu ao.
Đề tài
Gần một thế kỉ, nghệ thuật tranh lụa Việt Nam hiện đại trải qua nhiều bước thăng trầm, có thể khái quát quá tŕnh phát triển của tranh lụa Việt nam qua ba giai đoan như sau:
Tranh lụa trước năm 1945
Đây được coi là giai đoạn mở đầu của nghệ thuật tranh lụa Việt Nam. Với sự kết hợp chặt chẽ giữa kĩ thuật vẽ của phương Tây và tính chất dân tộc đậm nét, các họa sĩ đó sỏng tỏc nờn những tác phẩm lụa đầu tiên mang giá trị nghệ thuật đặc sắc. Những bức tranh: “Chơi ô ăn quan, Lên đồng, Xem tướng, Em bé chơi chim, Vo gạo” (Nguyễn Phan Chánh); “Về chợ” (1927), “Người đàn bà chít khăn trắng” (1930), “Trước giờ tế, Mùa xuân ngắm cảnh, Cha khuyên con, Bến bờ sông Hồng mua bán gạo”(1931-1933) (Nguyễn Nam Sơn); “Xuống ngựa, Hỏi thăm đường, Đánh tam cúc, Xem số” (Trần Phềnh); “Bức thư” (Tô Ngọc Vân)… là những tác phẩm lụa đầu tiên được giới thiệu ra nước ngoài. Ngoài cái tên đề tài mang tính dân tộc học khơi gọi tính hiếu kỳ của người xem, lớp tranh lụa đầu tiên này được các tác giả nghiên cứu công phu, sáng tác theo phương pháp cổ điển về diễn h́nh. Trên chất lụa mềm mại, những con người Việt Nam được đưa vào trong tranh với một phong cách mới, sinh động, gần sát với hiện thực. Tranh lụa những năm 30 có thế vững chăi về bố cục, đầm ấm về ḥa sắc, bút pháp kín đáo và linh hoạt. Đó là đặc trưng của phong cách tạo hình dân tộc còn được giữ lại khá chặt chẽ.
Từ năm 1931 đến 1937, tranh lụa tiêu biểu cho hội họa Việt Nam ở các triển lăm trên thế giới: ở Pa-ri, ở San-Francisco, ở Java, ở Batavia, ở Hồng Kụng, Nhật Bản… Điều này tạo môi trường thuận lợi cho hội họa Việt Nam bước đầu làm quen với thế giới.
Những năm sau 1934, tranh lụa phát triển khác đi. Nghệ thuật vẽ lụa của các tác giả lúc này có phần khá hơn trước. Tranh lụa thời kỳ này bớt dần tính cách dân tộc học, họa sĩ muốn khẳng định cá tính độc đáo hơn, muốn đổi mới phong cách sáng tác. Màu sắc cũng biến đổi. Đề tài biểu hiện nhân vật có chiều hướng tự do cá nhân, biểu hiện bản lĩnh độc đáo của từng tác giả.
Thế hệ tiếp theo hầu như chuyên vẽ lụa: Trần Văn Cẩn, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Tiến Chung vẫn giữ vững phong cách tả thực với những nền nếp dân tộc. Lờ Yờn, Nguyễn Đức Nùng, U Văn An, Nguyễn Văn Quế có những khả năng đa dạng về nghệ thuật lụa. Đề tài chuyển từ sinh hoạt nông thôn ra thành thị. Những cô gái khỏe mạnh duyên dáng làm ăn trên đồng ruộng đă chuyển thành những cô gái thành thị ẻo lả. Cách vẽ có phóng khoáng, đa dạng hơn về ḥa sắc và bút pháp nhưng lại tẻ nhạt về cách nh́n. Khung cảnh sinh hoạt trên tranh đă thu hẹp lại ở một khu vườn, góc nhà, căn buồng, quanh quẩn nhỡn cỏc góc độ về mấy nhân vật mẫu.
Giai đoạn 1945 đến trước đổi mới
Thực tiễn Cách mạng tháng Tám năm 1945 dần dần đem lại hướng sáng tác mới cho tranh lụa cũng như mọi loại h́nh tranh vẽ của Việt Nam. Dòng tranh vẽ lụa truyền thống có cơ sở để phát triển đúng đắn hơn, có ý thức hơn về bước đường phát triển nghệ thuật của mình, trong lòng cuộc cách mạng lớn của đất nước.
Tháng 8/1946, triển lăm Mĩ thuật toàn quốc trình bày một sắc thái mới với hình ảnh những em bé tẩm dầu, chị nông dân xuống đồng cấy lúa được thể hiện ngay trên các bức tranh lụa.
Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, tranh lụa thay đổi hẳn môi trường và đối tượng miêu tả. Khuôn khổ vẽ có nhỏ hơn, đề tài và bố cục thay đổi hẳn: những anh thanh niên du kích, hành quân, những chị phụ nữ đeo ba lô đi công tác, nhân dân tản cư trong hang …..
Từ năm 1948, sau cuộc Đại hội văn nghệ toàn quốc tổ chức ở Đào Dă, tranh lụa được vẽ nhiều hơn và chất lượng vượt hẳn những năm đầu kháng chiến. Tranh lụa dần đi vào những chủ đề lớn của dân tộc như về cuộc chiến tranh nhân dân, về t́nh quân dân. Tiêu biểu là các bức tranh: “Cỏi bát” (Sỹ Ngọc); “Bộ đội giă gạo, Du kích Cảnh dương” (Nguyễn Văn Tỵ); “Quán tản cư, Mần xanh” (Phạm Văn Đôn); “Cán bộ đi công tác” (Lương Xuân Nhị); “Tản cư trong hang, Con đọc bầm nghe” (Trần Văn Cẩn); “Mừng thắng lợi cải cách ruộng đất” (Tạ thỳc Bỡnh); “Gặp nhau” (Mai Văn Hiến)…
Chín năm kháng chiến chống Pháp, tranh lụa đă phát triển từ thể loại phong tục sinh hoạt tiến lên những đề tài cách mạng, kháng chiến. Cách tạo hình không chỉ là mảng, mà sử dụng đậm nhạt vượt khỏi ranh giới các mảng hình. Màu sắc được sử dụng rộng răi hơn, đă sử dụng nét kết hợp với mảng. Từ hình thức dân tộc, nghệ thuật đi vào tả thực, gắn sát với cuộc sống chiến đấu nhiều màu vẻ. Từ nghệ thuật dân tộc, tranh lụa mang tính cách xă hội.
Sau năm 1960, thế hệ trẻ không kém phần hăng say chuyên môn hóa về lụa, các họa sĩ tiêu biểu như: Nguyễn Thụ, Thanh Ngọc, Thế Minh, Mai Long… Đặc biệt là đă xuất hiện nhiều tác giả nữ vẽ tranh lụa như: Phan Thị Hà với hai bức: “Gió gạo miền quê, kiểm tra vải”; Minh phương với: “Tuốt lúa ngày mùa, Thanh niên miền núi”; và các tác giả nữ khác: Nguyễn Thị Phúc, Nguyễn Thị Thùy, Hoàng Minh Hằng…  đều có tác phẩm tốt.
Sau năm 1975, các họa sĩ vẽ tranh lụa ngày càng đông, người ta nhận thấy có nhiều dấu hiệu cách tân đáng mừng.
Giai đoạn từ đổi mới đến nay
Trong một bài nói chuyện, họa sĩ Đỗ Đức có một nhận xét rất vui rằng “Các họa sĩ Việt Nam từ sau đổi mới giống như con dao pha, mỗi chất liệu đụng vào một tí, nhưng chẳng mấy người chuyên sâu vào chất liệu nào cả đời”. Nhận xét này đặc biệt đúng với tranh lụa, một thể loại dễ mà khó. Sau họa sĩ Nguyễn Phan Chánh, không có một họa sĩ nào chuyên sâu vào vẽ tranh lụa, mặc dù ai cũng “chấm” vào nó một chút, họa sĩ nào cũng từng thử vẽ lụa, có một vài bức kỉ niệm rồi lại buông.
Những năm sau đổi mới, do nhu cầu của thị trường, nhiều họa sĩ lao vào vẽ lụa nhưng đó là cuộc vận động tự phát của thị trường. Vào thời điểm tạm coi là vàng son đó, đă nảy ra những “sáng tạo” như dùng bột màu trát lên lụa không rửa, dùng tempera cho chảy nhớt lên mặt lụa. Lối làm cách tân xa rời truyền thống không mang phong cách đặc trưng lụa ấy dù chỉ một thời gian ngắn nhưng đă là thứ thuốc độc ngấm dần, góp phần làm hao mòn danh tiếng của tranh lụa.
Những năm gần đây, nghệ thuật tranh lụa Việt Nam có phần chững lại, không có nhiều họa sĩ đeo đuổi sang tác với chất liệu này. Họa sĩ trẻ hiếm khi quan tâm đến tranh lụa.
Những triển lăm chuyên đề tranh lụa 2007 do Vụ Mĩ thuật và Nhiếp ảnh, Bộ văn hóa – thể thao và du lịch tổ chức tại Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam (20/12-31/12) là một sự kiện trọng đại nhằm mục đích chấn hưng nghệ thuật vẽ tranh lụa Việt Nam. Đây là lần đầu tiên những người vẽ lụa hoặc quan tâm tới tranh lụa toàn quốc có cơ hội được cùng nhau góp mặt cho sự trở về của lụa. Với 578 tác phẩm của các họa sĩ ở 40 tỉnh thành trên cả nước gửi tới dự thi, trong đó có 154 bức được chọn treo ở Triển lăm là một dấu hiệu đáng mừng cho sự “chấn hưng” của một loại h́nh nghệ thuật đang trong giai đoạn “thoái trào”.
Trong số 320 họa sĩ gửi tranh đến Triển lăm, có thể kể ra một số gương mặt tiêu biểu như: họa sĩ Vũ Đính Tuấn với bức “Chiều Hoàng thành”; họa sĩ Nguyễn Phúc Lợi với bức “Nắng chiều”; họa sĩ Lê Xuân Dũng với “Chiều thứ bảy”… Đây là một trong số đại biểu tuy không phải là đỉnh cao nhưng tác phẩm của họ lóe lên vệt sáng mới rất đáng tin cậy. Điều này thực sự đáng mừng cho nghệ thuật tranh lụa. Bên cạnh đó, cũng có một loạt tác giả nữ khá ấn tượng có duyên thầm với lụa như: Đoàn Bích Thủy (Lạng Sơn), Chế Kim Chung (Ninh Thuận), Mai Xuân Oanh (Sơn La), là những họa sĩ ở xa Hà Nội nhưng thật sự cứng cỏi về tay nghề. C̣òn một loạt tác giả trẻ khác cũng đầy hứa hẹn như Ngô Thị Bích Hạnh, Quan Thị Phong, Trần Thị Phương Liên, Yến Nguyệt, Phạm Thanh Vơn…Tất cả đều khá vững chăi tự tin trong chất liệu.
Ý nghĩa
Sự sáng tạo của hoạ sĩ Việt Nam đưa nền đỡ lụa thành một thể loại riêng” hội hoạ trên lụa” làm cho các sợi tơ óng ả trực tiếp tham gia vào việc diễn tả nghệ thuật về cả hai phương diện tạo hình và biểu cảm.
Về thể loại trang mang nội dung dân dã, nông thôn, hình vẽ không nhiều chi tiết cầu kỳ, chải chuốt nhưng rất gợi cảm. Màu sắc đằm thắm dựa trên gam nâu trầm ấm rất hợp với đề tài. Tuy đơn giản nhưng rất tinh tế, hoàn hảo. Tranh lụa có một phong cách, dấu ấn riêng, nổi bật ở cách nhìn dung dị, chân thực, đậm chất nhân văn với khả năng kết nối giữa tinh thần, hình thể dân gian của người Việt và ý niệm không gian phương Đông cùng cách biểu đạt bảng màu đơn giản nhưng đa sắc.
Nhìn chung, sưu tập tranh lụa Việt Nam đã khẳng định sự phát triển của nghệ thuật tranh lụa Việt Nam qua các giai đoạn, đồng thời khẳng định vị trí song hành của nó cùng các tác phẩm màu dầu, sơn mài trong nền nghệ thuật tạo hình Việt Nam.
Tuy nhiên, cần phải nói là trong bộ sưu tập tranh lụa tại Việt Nam từ thập niên 1990 đến nay, số lượng các tác phẩm lụa được sưu tập rất hạn chế so với các tác phẩm sử dụng chất liệu còn lại như màu dầu, sơn mài, đồ họa và điêu khắc (tỉ lệ chưa được 5%). Mặt khác, các tác phẩm được sưu tập cũng không đặc sắc. Rõ ràng là trên bình diện chung của mỹ thuật đương đại Việt Nam, tranh lụa vừa có số lượng ít vừa có chất lượng nghệ thuật không cao.
Có nhiều nguyên nhân đã tác động:
Thứ nhất, khả năng diễn đạt của chất liệu lụa trong các tác phẩm có giới hạn. Ở mức độ nhất định, các công đoạn sáng tác một bức lụa đích thực đòi hỏi rất nhiều thời gian, qua đó làm giảm khả năng ung phấn, xúc cảm thăng hoa của nghệ sĩ.
Thứ hai, “nội lực” của nhiều họa sĩ sáng tác tranh lụa không cao, dẫn đến sự thiếu đầu tư chiều sâu; bởi vậy chỉ dừng lại ở mức độ dễ xem hay “đẹp” về mặt thị giác.
Thứ ba, trong thời buổi kinh tế thị trường, khi mà các tác phẩm chất liệu màu dầu, sơn mài được khách hàng ưa chuộng thì sự đáp ứng giữa cung và cầu là điều tất yếu xảy ra, cũng vì lẽ đó, không còn nhiều họa sĩ chuyên tâm tới sự sáng tạo tác phẩm ở thể loại lụa nữa.
Nguồn:

ps: như mọi lần. Đây chỉ là nội dung tham khảo mình tập hợp lại. Mong giúp dc các bạn.