Thứ Hai, 7 tháng 4, 2014

Tranh lụa VN - p2 end


Các họa sĩ Việt Nam nổi tiếng với tranh luạ
Nguyễn Phan Chánh (1892-1984) được coi là họa sỹ đã khai phá loại hình tranh lụa hiện đại Việt Nam. Những bức vẽ thành công của ông có một phong vị đặc biệt Việt Nam, đồng thời phù hợp với quan niệm hội họa hiện đại: những mảng màu đơn giản, ấm áp, nhuần nhị, những đường viền mềm mại, những khoảng trống rất đúng chỗ. Ngoài ra, nhân vật và bối cảnh Việt Nam được nghiên cứu đơn giản và cách điệu độc đáo. Thành công của ông đã lôi cuốn các bạn cùng lứa và các họa sỹ thuộc lớp sau, mỗi người đã đóng góp làm phong phú thêm kỹ thuật vẽ tranh lụa.
Mai Trung Thứ, Lê Phổ, Lê Thị Lựu là những người sống ở Paris, trung tâm hội họa thế giới với đủ trường phái tân kỳ, nhưng họ vẫn vẽ tranh lụa, góp phần cất lên một tiếng nói nghệ thuật độc đáo của Việt Nam.
Sau Cách mạng tháng Tám, số họa sỹ vẽ tranh lụa đông hơn. Họ mở rộng hơn đề tài, kỹ thuật và đã có những thành công mới. Nguyễn Thụ là một họa sỹ chuyên nhất về tranh lụa, có một phong cách riêng biệt. Bố cục tranh của ông đơn giản, nhịp nhàng, màu sắc mát mẻ êm dịu; bút pháp phóng khoáng, nhẹ nhàng; không gian mờ ảo thơ mộng với những nhân vật bình dị, thân quen... Một số nữ họa sỹ khác như Vũ Giáng Hương, Lê Kim Mỹ, Trần Thanh Ngọc, Mộng Bích, Kim Bạch, Đặng Thu Hương... cũng đã có nhiều thành công với tranh lụa.
Tác phẩm
Nếu tranh Trung Quốc thường là tranh dọc, khổ đứng thì tranh lụa Việt Nam nói riêng, tranh sơn mài, sơn dầu, tranh khắc… nói chung có bố cục thường nằm ngang hay nằm từ dưới lên. Bố cục này khẳng định khí chất của người Việt Nam, một dân tộc hơn nghìn năm luôn đối đầu với chiến tranh, một ước mơ mà con người luôn đứng lên làm chủ, vươn tới hoà b́nh độc lập tự do. Một lối thể hiện nhằm nói lên tính chất hùng tráng, một sức sống tiềm tàng luôn thôi thúc cháy bỏng, một cuộc sống chan chứa tình người, giữa sự sống và cái chết, nên đề tài của các hoạ sĩ hiện đại Việt Nam thường đề cập đến cuộc kháng chiến, động viên giáo dục, thực tiễn đáp ứng theo xu thế thời đại.
Bức Dân công sửa đường chiến dịch Điện Biên Phủ (1974) của Trần Thanh Ngọc, bố cục sắp xếp các mảng sáng tối chạy trong tranh tạo nhịp điệu. Tất cả nhân vật phần đông đều màu sậm, một vài nhân vật bị mất phần đầu song tác giả đă ưu tiên cho nhóm chính là hai cô gái đang mải mê lao động, đằng sau nữa là những anh bộ đội hành quân. Tuy mỗi người một nhiệm vụ nhưng nhịp điệu và không khí bức tranh đă nói lên một tình cảm thầm kín…Cũng một bố cục sắp xếp sự chuyển nhịp của mảng sáng tối, Trần Lưu Hậu chọn mảng sáng của trời, độ sáng y phục của nhân vật và các chùm hoa trên cành cây tạo nhịp chạy của tranh. Một số tác phẩm có sử dụng luật phối cảnh nhằm tạo không gian thực, cảm giác thực cho người xem như Mẹ con của Lê Thị Lựu, Bế Văn Đàn của Lê Vinh, Du kích địch hậu chống càn của Trịnh Pḥng. Những tác phẩm như vậy thường phản ánh tính chất hiện thực.
Tranh lụa Việt Nam được các hoạ sĩ khai thác màu sắc khá phong phú, nhiều lúc sự vật trong tranh được tác giả cường điệu khác với hiện thực tế nhằm hướng người xem vào trọng tâm bức tranh. Chẳng hạn Trên nhà sàn của Nguyễn Thụ: những ngôi nhà chỉ là mảng bẹt, một màu hồng nhẹ, khoảng cách được tạo bởi các mảng màu xanh đen, màu cô ban vẽ rất mỏng, màu rêu đất, một than cây khẳng khiu với vài cành uốn lượn mệm mại màu đen phá vỡ sự hoang lạnh của một vùng miền núi…
Tác phẩm Mẹ con của Lê Thị Lựu vẽ theo trường phái ấn tượng, tạo một khả năng diễn tả không khí sôi động với màu sắc thực của thiên nhiên, hoà sắc phối hợp nhuần nhuyễn tạo ra bề dày của không khí cộng với sự tương tác màu của các sự vật trong không gian.
Tác phẩm đọc tin chiến thắng của Lương Xuân Nhị cho thấy một khả năng phối màu tuyệt vời trong tranh lụa không thua kém các chất liệu khác. Trong một mảng ta có thể nh́ìn ra rất nhiều màu sắc khác nhau phối hợp mà vẫn giữ được sự trong sạch của chất lụa. Với gam màu vàng chủ đạo, ông đă sử dụng thêm nhiều mảng màu khác nhau: nâu đất, nâu đen, nây xanh cô ban, nâu lam, nâu cam, trắng vàng…tất cả các mầu hầu như có ngả màu vàng. Ngoài ra còn có các màu xanh lá, xanh rêu, tím nhạt…tất cả đều hoà quyện nhau không cho cảm giác chói màu. Những nhân vật được nhấn đậm lên vài độ…nhằm tập chung nhãn quan.
Nguyễn Phan Tránh là hoạ sĩ của làng quê, trong tranh ông luôn có một gam màu nây ṣáng. Trong các mảng đậm ta thấy sự lung linh của sắc màu xanh, tím, rêu, đỏ…Gần đây các hoạ sĩ còn cường điệu màu sắc vật  thể mạnh mẽ để tạo ấn tượng: như bức Bản làng màu đỏ của Nguyễn Lệ Dung, màu trắng của hoa, màu xanh của núi, màu đỏ của đất…, tác phẩm Đêm mùa hạ của Nguyễn Hoàng Anh, màu đỏ tím của hoa giấy đặt cạnh mảng màu lớn cô ban hoà một chút đen diễn tả không khí trong pḥng, một thiếu nữ ngồi búi tóc màu xanh cô ban nhẹ hơn. Màu sắc bức tranh gợi cho người xem như một sự trông chờ thầm kín…
Mỗi khi nói đến tranh của các hoạ sĩ phương Đông, chúng ta lại nghĩ ngay đến đường nét. Tranh của Việt Nam có thủ pháp riêng không giống tranh khắc của Nhật Bản cũng không giống tranh lụa của Trung Quốc. Đường nét được biến đổi lúc đậm lúc nhạt nhoè vào mảng màu để tạo khối, tạo không gian, tạo khoảng cách. Nó cũng là điểm nhấn cần thiết gần với cách vẽ nghiên cứu hình hoạ. Các tác phẩm: Con đọc bầm nghe của Trần Văn Cẩn, Du kích địch hậu chống càn của Trịnh Pḥng, Hàn quân mưa của Phan Thông lối vẽ kết hợp giữ thuỷ mặc Trung Quốc với sự xúc tác của mảng nét là cái duyên trong tranh của ông, khi thể hiện phong cách đó trong đề tài vẽ tranh về phụ nữ miền cao, nhân vật hiện lên trong tranh đầy đủ  chất lăng mạn, dịu dàng du dương, nhân vật trở nên duyên dáng bởi cách thể hiện, như bức bên Bếp lửa.
Phần nhiều hoạ sĩ Việt Nam thể hiện đường nét rất thoải mái, đường nét và chi tiết đều được sử dụng bằng cọ (cọ vẽ sơn dầu). Lê Văn Đệ trong tác phẩm Bên cầu ao đă sử dụng những giới hạn của các mảng màu để tạo nên đường nét mềm mại của thiếu nữ duyên dáng chải tóc bên cầu ao.
Đề tài
Gần một thế kỉ, nghệ thuật tranh lụa Việt Nam hiện đại trải qua nhiều bước thăng trầm, có thể khái quát quá tŕnh phát triển của tranh lụa Việt nam qua ba giai đoan như sau:
Tranh lụa trước năm 1945
Đây được coi là giai đoạn mở đầu của nghệ thuật tranh lụa Việt Nam. Với sự kết hợp chặt chẽ giữa kĩ thuật vẽ của phương Tây và tính chất dân tộc đậm nét, các họa sĩ đó sỏng tỏc nờn những tác phẩm lụa đầu tiên mang giá trị nghệ thuật đặc sắc. Những bức tranh: “Chơi ô ăn quan, Lên đồng, Xem tướng, Em bé chơi chim, Vo gạo” (Nguyễn Phan Chánh); “Về chợ” (1927), “Người đàn bà chít khăn trắng” (1930), “Trước giờ tế, Mùa xuân ngắm cảnh, Cha khuyên con, Bến bờ sông Hồng mua bán gạo”(1931-1933) (Nguyễn Nam Sơn); “Xuống ngựa, Hỏi thăm đường, Đánh tam cúc, Xem số” (Trần Phềnh); “Bức thư” (Tô Ngọc Vân)… là những tác phẩm lụa đầu tiên được giới thiệu ra nước ngoài. Ngoài cái tên đề tài mang tính dân tộc học khơi gọi tính hiếu kỳ của người xem, lớp tranh lụa đầu tiên này được các tác giả nghiên cứu công phu, sáng tác theo phương pháp cổ điển về diễn h́nh. Trên chất lụa mềm mại, những con người Việt Nam được đưa vào trong tranh với một phong cách mới, sinh động, gần sát với hiện thực. Tranh lụa những năm 30 có thế vững chăi về bố cục, đầm ấm về ḥa sắc, bút pháp kín đáo và linh hoạt. Đó là đặc trưng của phong cách tạo hình dân tộc còn được giữ lại khá chặt chẽ.
Từ năm 1931 đến 1937, tranh lụa tiêu biểu cho hội họa Việt Nam ở các triển lăm trên thế giới: ở Pa-ri, ở San-Francisco, ở Java, ở Batavia, ở Hồng Kụng, Nhật Bản… Điều này tạo môi trường thuận lợi cho hội họa Việt Nam bước đầu làm quen với thế giới.
Những năm sau 1934, tranh lụa phát triển khác đi. Nghệ thuật vẽ lụa của các tác giả lúc này có phần khá hơn trước. Tranh lụa thời kỳ này bớt dần tính cách dân tộc học, họa sĩ muốn khẳng định cá tính độc đáo hơn, muốn đổi mới phong cách sáng tác. Màu sắc cũng biến đổi. Đề tài biểu hiện nhân vật có chiều hướng tự do cá nhân, biểu hiện bản lĩnh độc đáo của từng tác giả.
Thế hệ tiếp theo hầu như chuyên vẽ lụa: Trần Văn Cẩn, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Tiến Chung vẫn giữ vững phong cách tả thực với những nền nếp dân tộc. Lờ Yờn, Nguyễn Đức Nùng, U Văn An, Nguyễn Văn Quế có những khả năng đa dạng về nghệ thuật lụa. Đề tài chuyển từ sinh hoạt nông thôn ra thành thị. Những cô gái khỏe mạnh duyên dáng làm ăn trên đồng ruộng đă chuyển thành những cô gái thành thị ẻo lả. Cách vẽ có phóng khoáng, đa dạng hơn về ḥa sắc và bút pháp nhưng lại tẻ nhạt về cách nh́n. Khung cảnh sinh hoạt trên tranh đă thu hẹp lại ở một khu vườn, góc nhà, căn buồng, quanh quẩn nhỡn cỏc góc độ về mấy nhân vật mẫu.
Giai đoạn 1945 đến trước đổi mới
Thực tiễn Cách mạng tháng Tám năm 1945 dần dần đem lại hướng sáng tác mới cho tranh lụa cũng như mọi loại h́nh tranh vẽ của Việt Nam. Dòng tranh vẽ lụa truyền thống có cơ sở để phát triển đúng đắn hơn, có ý thức hơn về bước đường phát triển nghệ thuật của mình, trong lòng cuộc cách mạng lớn của đất nước.
Tháng 8/1946, triển lăm Mĩ thuật toàn quốc trình bày một sắc thái mới với hình ảnh những em bé tẩm dầu, chị nông dân xuống đồng cấy lúa được thể hiện ngay trên các bức tranh lụa.
Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, tranh lụa thay đổi hẳn môi trường và đối tượng miêu tả. Khuôn khổ vẽ có nhỏ hơn, đề tài và bố cục thay đổi hẳn: những anh thanh niên du kích, hành quân, những chị phụ nữ đeo ba lô đi công tác, nhân dân tản cư trong hang …..
Từ năm 1948, sau cuộc Đại hội văn nghệ toàn quốc tổ chức ở Đào Dă, tranh lụa được vẽ nhiều hơn và chất lượng vượt hẳn những năm đầu kháng chiến. Tranh lụa dần đi vào những chủ đề lớn của dân tộc như về cuộc chiến tranh nhân dân, về t́nh quân dân. Tiêu biểu là các bức tranh: “Cỏi bát” (Sỹ Ngọc); “Bộ đội giă gạo, Du kích Cảnh dương” (Nguyễn Văn Tỵ); “Quán tản cư, Mần xanh” (Phạm Văn Đôn); “Cán bộ đi công tác” (Lương Xuân Nhị); “Tản cư trong hang, Con đọc bầm nghe” (Trần Văn Cẩn); “Mừng thắng lợi cải cách ruộng đất” (Tạ thỳc Bỡnh); “Gặp nhau” (Mai Văn Hiến)…
Chín năm kháng chiến chống Pháp, tranh lụa đă phát triển từ thể loại phong tục sinh hoạt tiến lên những đề tài cách mạng, kháng chiến. Cách tạo hình không chỉ là mảng, mà sử dụng đậm nhạt vượt khỏi ranh giới các mảng hình. Màu sắc được sử dụng rộng răi hơn, đă sử dụng nét kết hợp với mảng. Từ hình thức dân tộc, nghệ thuật đi vào tả thực, gắn sát với cuộc sống chiến đấu nhiều màu vẻ. Từ nghệ thuật dân tộc, tranh lụa mang tính cách xă hội.
Sau năm 1960, thế hệ trẻ không kém phần hăng say chuyên môn hóa về lụa, các họa sĩ tiêu biểu như: Nguyễn Thụ, Thanh Ngọc, Thế Minh, Mai Long… Đặc biệt là đă xuất hiện nhiều tác giả nữ vẽ tranh lụa như: Phan Thị Hà với hai bức: “Gió gạo miền quê, kiểm tra vải”; Minh phương với: “Tuốt lúa ngày mùa, Thanh niên miền núi”; và các tác giả nữ khác: Nguyễn Thị Phúc, Nguyễn Thị Thùy, Hoàng Minh Hằng…  đều có tác phẩm tốt.
Sau năm 1975, các họa sĩ vẽ tranh lụa ngày càng đông, người ta nhận thấy có nhiều dấu hiệu cách tân đáng mừng.
Giai đoạn từ đổi mới đến nay
Trong một bài nói chuyện, họa sĩ Đỗ Đức có một nhận xét rất vui rằng “Các họa sĩ Việt Nam từ sau đổi mới giống như con dao pha, mỗi chất liệu đụng vào một tí, nhưng chẳng mấy người chuyên sâu vào chất liệu nào cả đời”. Nhận xét này đặc biệt đúng với tranh lụa, một thể loại dễ mà khó. Sau họa sĩ Nguyễn Phan Chánh, không có một họa sĩ nào chuyên sâu vào vẽ tranh lụa, mặc dù ai cũng “chấm” vào nó một chút, họa sĩ nào cũng từng thử vẽ lụa, có một vài bức kỉ niệm rồi lại buông.
Những năm sau đổi mới, do nhu cầu của thị trường, nhiều họa sĩ lao vào vẽ lụa nhưng đó là cuộc vận động tự phát của thị trường. Vào thời điểm tạm coi là vàng son đó, đă nảy ra những “sáng tạo” như dùng bột màu trát lên lụa không rửa, dùng tempera cho chảy nhớt lên mặt lụa. Lối làm cách tân xa rời truyền thống không mang phong cách đặc trưng lụa ấy dù chỉ một thời gian ngắn nhưng đă là thứ thuốc độc ngấm dần, góp phần làm hao mòn danh tiếng của tranh lụa.
Những năm gần đây, nghệ thuật tranh lụa Việt Nam có phần chững lại, không có nhiều họa sĩ đeo đuổi sang tác với chất liệu này. Họa sĩ trẻ hiếm khi quan tâm đến tranh lụa.
Những triển lăm chuyên đề tranh lụa 2007 do Vụ Mĩ thuật và Nhiếp ảnh, Bộ văn hóa – thể thao và du lịch tổ chức tại Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam (20/12-31/12) là một sự kiện trọng đại nhằm mục đích chấn hưng nghệ thuật vẽ tranh lụa Việt Nam. Đây là lần đầu tiên những người vẽ lụa hoặc quan tâm tới tranh lụa toàn quốc có cơ hội được cùng nhau góp mặt cho sự trở về của lụa. Với 578 tác phẩm của các họa sĩ ở 40 tỉnh thành trên cả nước gửi tới dự thi, trong đó có 154 bức được chọn treo ở Triển lăm là một dấu hiệu đáng mừng cho sự “chấn hưng” của một loại h́nh nghệ thuật đang trong giai đoạn “thoái trào”.
Trong số 320 họa sĩ gửi tranh đến Triển lăm, có thể kể ra một số gương mặt tiêu biểu như: họa sĩ Vũ Đính Tuấn với bức “Chiều Hoàng thành”; họa sĩ Nguyễn Phúc Lợi với bức “Nắng chiều”; họa sĩ Lê Xuân Dũng với “Chiều thứ bảy”… Đây là một trong số đại biểu tuy không phải là đỉnh cao nhưng tác phẩm của họ lóe lên vệt sáng mới rất đáng tin cậy. Điều này thực sự đáng mừng cho nghệ thuật tranh lụa. Bên cạnh đó, cũng có một loạt tác giả nữ khá ấn tượng có duyên thầm với lụa như: Đoàn Bích Thủy (Lạng Sơn), Chế Kim Chung (Ninh Thuận), Mai Xuân Oanh (Sơn La), là những họa sĩ ở xa Hà Nội nhưng thật sự cứng cỏi về tay nghề. C̣òn một loạt tác giả trẻ khác cũng đầy hứa hẹn như Ngô Thị Bích Hạnh, Quan Thị Phong, Trần Thị Phương Liên, Yến Nguyệt, Phạm Thanh Vơn…Tất cả đều khá vững chăi tự tin trong chất liệu.
Ý nghĩa
Sự sáng tạo của hoạ sĩ Việt Nam đưa nền đỡ lụa thành một thể loại riêng” hội hoạ trên lụa” làm cho các sợi tơ óng ả trực tiếp tham gia vào việc diễn tả nghệ thuật về cả hai phương diện tạo hình và biểu cảm.
Về thể loại trang mang nội dung dân dã, nông thôn, hình vẽ không nhiều chi tiết cầu kỳ, chải chuốt nhưng rất gợi cảm. Màu sắc đằm thắm dựa trên gam nâu trầm ấm rất hợp với đề tài. Tuy đơn giản nhưng rất tinh tế, hoàn hảo. Tranh lụa có một phong cách, dấu ấn riêng, nổi bật ở cách nhìn dung dị, chân thực, đậm chất nhân văn với khả năng kết nối giữa tinh thần, hình thể dân gian của người Việt và ý niệm không gian phương Đông cùng cách biểu đạt bảng màu đơn giản nhưng đa sắc.
Nhìn chung, sưu tập tranh lụa Việt Nam đã khẳng định sự phát triển của nghệ thuật tranh lụa Việt Nam qua các giai đoạn, đồng thời khẳng định vị trí song hành của nó cùng các tác phẩm màu dầu, sơn mài trong nền nghệ thuật tạo hình Việt Nam.
Tuy nhiên, cần phải nói là trong bộ sưu tập tranh lụa tại Việt Nam từ thập niên 1990 đến nay, số lượng các tác phẩm lụa được sưu tập rất hạn chế so với các tác phẩm sử dụng chất liệu còn lại như màu dầu, sơn mài, đồ họa và điêu khắc (tỉ lệ chưa được 5%). Mặt khác, các tác phẩm được sưu tập cũng không đặc sắc. Rõ ràng là trên bình diện chung của mỹ thuật đương đại Việt Nam, tranh lụa vừa có số lượng ít vừa có chất lượng nghệ thuật không cao.
Có nhiều nguyên nhân đã tác động:
Thứ nhất, khả năng diễn đạt của chất liệu lụa trong các tác phẩm có giới hạn. Ở mức độ nhất định, các công đoạn sáng tác một bức lụa đích thực đòi hỏi rất nhiều thời gian, qua đó làm giảm khả năng ung phấn, xúc cảm thăng hoa của nghệ sĩ.
Thứ hai, “nội lực” của nhiều họa sĩ sáng tác tranh lụa không cao, dẫn đến sự thiếu đầu tư chiều sâu; bởi vậy chỉ dừng lại ở mức độ dễ xem hay “đẹp” về mặt thị giác.
Thứ ba, trong thời buổi kinh tế thị trường, khi mà các tác phẩm chất liệu màu dầu, sơn mài được khách hàng ưa chuộng thì sự đáp ứng giữa cung và cầu là điều tất yếu xảy ra, cũng vì lẽ đó, không còn nhiều họa sĩ chuyên tâm tới sự sáng tạo tác phẩm ở thể loại lụa nữa.
Nguồn:

ps: như mọi lần. Đây chỉ là nội dung tham khảo mình tập hợp lại. Mong giúp dc các bạn. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét