Các
họa sĩ Việt Nam nổi tiếng với tranh luạ
Nguyễn Phan Chánh (1892-1984) được coi là họa sỹ đã khai phá loại hình
tranh lụa hiện đại Việt Nam. Những bức vẽ thành công của ông có một phong vị
đặc biệt Việt Nam, đồng thời phù hợp với quan niệm hội họa hiện đại: những mảng
màu đơn giản, ấm áp, nhuần nhị, những đường viền mềm mại, những khoảng trống
rất đúng chỗ. Ngoài ra, nhân vật và bối cảnh Việt Nam được nghiên cứu đơn giản
và cách
điệu độc đáo. Thành công
của ông đã lôi cuốn các bạn cùng lứa và các họa sỹ thuộc lớp sau, mỗi người đã
đóng góp làm phong phú thêm kỹ thuật vẽ tranh lụa.
Mai Trung Thứ, Lê Phổ, Lê Thị Lựu là
những người sống ở Paris, trung tâm hội họa thế giới với đủ trường
phái tân kỳ, nhưng họ vẫn
vẽ tranh lụa, góp phần cất lên một tiếng nói nghệ thuật độc đáo của Việt Nam.
Sau Cách mạng tháng Tám, số họa sỹ vẽ tranh lụa đông hơn. Họ
mở rộng hơn đề tài, kỹ thuật và đã có những thành công mới. Nguyễn
Thụ là một họa sỹ chuyên
nhất về tranh lụa, có một phong cách riêng biệt. Bố cục tranh của ông đơn giản,
nhịp nhàng, màu sắc mát mẻ êm dịu; bút pháp phóng khoáng, nhẹ nhàng; không gian
mờ ảo thơ mộng với những nhân vật bình dị, thân quen... Một số nữ họa sỹ khác
như Vũ Giáng Hương, Lê Kim Mỹ, Trần Thanh Ngọc, Mộng
Bích, Kim Bạch, Đặng Thu Hương... cũng đã có nhiều thành công với tranh lụa.
Tác phẩm
Nếu
tranh Trung Quốc thường là tranh dọc, khổ đứng thì tranh lụa Việt Nam nói riêng,
tranh sơn mài, sơn dầu, tranh khắc… nói chung có bố cục thường nằm ngang hay
nằm từ dưới lên. Bố cục này khẳng định khí chất của người Việt Nam, một dân tộc
hơn nghìn năm luôn đối đầu với chiến tranh, một ước mơ mà con người luôn đứng
lên làm chủ, vươn tới hoà b́nh độc lập tự do. Một lối thể hiện nhằm nói lên
tính chất hùng tráng, một sức sống tiềm tàng luôn thôi thúc cháy bỏng, một cuộc
sống chan chứa tình người, giữa sự sống và cái chết, nên đề tài của các hoạ sĩ
hiện đại Việt Nam thường đề cập đến cuộc kháng chiến, động viên giáo dục, thực
tiễn đáp ứng theo xu thế thời đại.
Bức
Dân công sửa đường chiến dịch Điện Biên Phủ (1974) của Trần Thanh Ngọc, bố cục
sắp xếp các mảng sáng tối chạy trong tranh tạo nhịp điệu. Tất cả nhân vật phần
đông đều màu sậm, một vài nhân vật bị mất phần đầu song tác giả đă ưu tiên cho
nhóm chính là hai cô gái đang mải mê lao động, đằng sau nữa là những anh bộ đội
hành quân. Tuy mỗi người một nhiệm vụ nhưng nhịp điệu và không khí bức tranh đă
nói lên một tình cảm thầm kín…Cũng một bố cục sắp xếp sự chuyển nhịp của mảng
sáng tối, Trần Lưu Hậu chọn mảng sáng của trời, độ sáng y phục của nhân vật và
các chùm hoa trên cành cây tạo nhịp chạy của tranh. Một số tác phẩm có sử dụng
luật phối cảnh nhằm tạo không gian thực, cảm giác thực cho người xem như Mẹ con
của Lê Thị Lựu, Bế Văn Đàn của Lê Vinh, Du kích địch hậu chống càn của Trịnh
Pḥng. Những tác phẩm như vậy thường phản ánh tính chất hiện thực.
Tranh
lụa Việt Nam được các hoạ sĩ khai thác màu sắc khá phong phú, nhiều lúc sự vật
trong tranh được tác giả cường điệu khác với hiện thực tế nhằm hướng người xem
vào trọng tâm bức tranh. Chẳng hạn Trên nhà sàn của Nguyễn Thụ: những ngôi nhà
chỉ là mảng bẹt, một màu hồng nhẹ, khoảng cách được tạo bởi các mảng màu xanh
đen, màu cô ban vẽ rất mỏng, màu rêu đất, một than cây khẳng khiu với vài cành
uốn lượn mệm mại màu đen phá vỡ sự hoang lạnh của một vùng miền núi…
Tác
phẩm Mẹ con của Lê Thị Lựu vẽ theo trường phái ấn tượng, tạo một khả năng diễn
tả không khí sôi động với màu sắc thực của thiên nhiên, hoà sắc phối hợp nhuần
nhuyễn tạo ra bề dày của không khí cộng với sự tương tác màu của các sự vật
trong không gian.
Tác
phẩm đọc tin chiến thắng của Lương Xuân Nhị cho thấy một khả năng phối màu
tuyệt vời trong tranh lụa không thua kém các chất liệu khác. Trong một mảng ta
có thể nh́ìn ra rất nhiều màu sắc khác nhau phối hợp mà vẫn giữ được sự trong
sạch của chất lụa. Với gam màu vàng chủ đạo, ông đă sử dụng thêm nhiều mảng màu
khác nhau: nâu đất, nâu đen, nây xanh cô ban, nâu lam, nâu cam, trắng vàng…tất
cả các mầu hầu như có ngả màu vàng. Ngoài ra còn có các màu xanh lá, xanh rêu,
tím nhạt…tất cả đều hoà quyện nhau không cho cảm giác chói màu. Những nhân vật
được nhấn đậm lên vài độ…nhằm tập chung nhãn quan.
Nguyễn
Phan Tránh là hoạ sĩ của làng quê, trong tranh ông luôn có một gam màu nây
ṣáng. Trong các mảng đậm ta thấy sự lung linh của sắc màu xanh, tím, rêu,
đỏ…Gần đây các hoạ sĩ còn cường điệu màu sắc vật thể mạnh mẽ để tạo ấn
tượng: như bức Bản làng màu đỏ của Nguyễn Lệ Dung, màu trắng của hoa, màu xanh
của núi, màu đỏ của đất…, tác phẩm Đêm mùa hạ của Nguyễn Hoàng Anh, màu đỏ tím
của hoa giấy đặt cạnh mảng màu lớn cô ban hoà một chút đen diễn tả không khí
trong pḥng, một thiếu nữ ngồi búi tóc màu xanh cô ban nhẹ hơn. Màu sắc bức
tranh gợi cho người xem như một sự trông chờ thầm kín…
Mỗi
khi nói đến tranh của các hoạ sĩ phương Đông, chúng ta lại nghĩ ngay đến đường
nét. Tranh của Việt Nam có thủ pháp riêng không giống tranh khắc của Nhật Bản
cũng không giống tranh lụa của Trung Quốc. Đường nét được biến đổi lúc đậm lúc
nhạt nhoè vào mảng màu để tạo khối, tạo không gian, tạo khoảng cách. Nó cũng là
điểm nhấn cần thiết gần với cách vẽ nghiên cứu hình hoạ. Các tác phẩm: Con đọc
bầm nghe của Trần Văn Cẩn, Du kích địch hậu chống càn của Trịnh Pḥng, Hàn quân
mưa của Phan Thông lối vẽ kết hợp giữ thuỷ mặc Trung Quốc với sự xúc tác của
mảng nét là cái duyên trong tranh của ông, khi thể hiện phong cách đó trong đề
tài vẽ tranh về phụ nữ miền cao, nhân vật hiện lên trong tranh đầy đủ
chất lăng mạn, dịu dàng du dương, nhân vật trở nên duyên dáng bởi cách thể
hiện, như bức bên Bếp lửa.
Phần
nhiều hoạ sĩ Việt Nam thể hiện đường nét rất thoải mái, đường nét và chi
tiết đều được sử dụng bằng cọ (cọ vẽ sơn dầu). Lê Văn Đệ trong tác phẩm Bên cầu
ao đă sử dụng những giới hạn của các mảng màu để tạo nên đường nét mềm mại của
thiếu nữ duyên dáng chải tóc bên cầu ao.
Đề
tài
Gần
một thế kỉ, nghệ thuật tranh lụa Việt Nam hiện đại trải qua nhiều bước thăng
trầm, có thể khái quát quá tŕnh phát triển của tranh lụa Việt nam qua ba giai
đoan như sau:
Tranh lụa trước năm 1945
Đây
được coi là giai đoạn mở đầu của nghệ thuật tranh lụa Việt Nam. Với sự kết hợp
chặt chẽ giữa kĩ thuật vẽ của phương Tây và tính chất dân tộc đậm nét, các họa
sĩ đó sỏng tỏc nờn những tác phẩm lụa đầu tiên mang giá trị nghệ thuật đặc sắc.
Những bức tranh: “Chơi ô ăn quan, Lên đồng, Xem tướng, Em bé chơi chim, Vo
gạo” (Nguyễn Phan Chánh); “Về chợ” (1927), “Người đàn bà chít
khăn trắng” (1930), “Trước giờ tế, Mùa xuân ngắm cảnh, Cha khuyên con,
Bến bờ sông Hồng mua bán gạo”(1931-1933) (Nguyễn Nam Sơn); “Xuống ngựa,
Hỏi thăm đường, Đánh tam cúc, Xem số” (Trần Phềnh); “Bức thư” (Tô
Ngọc Vân)… là những tác phẩm lụa đầu tiên được giới thiệu ra nước ngoài. Ngoài
cái tên đề tài mang tính dân tộc học khơi gọi tính hiếu kỳ của người xem, lớp
tranh lụa đầu tiên này được các tác giả nghiên cứu công phu, sáng tác theo
phương pháp cổ điển về diễn h́nh. Trên chất lụa mềm mại, những con người Việt
Nam được đưa vào trong tranh với một phong cách mới, sinh động, gần sát với
hiện thực. Tranh lụa những năm 30 có thế vững chăi về bố cục, đầm ấm về ḥa
sắc, bút pháp kín đáo và linh hoạt. Đó là đặc trưng của phong cách tạo
hình dân tộc còn được giữ lại khá chặt chẽ.
Từ
năm 1931 đến 1937, tranh lụa tiêu biểu cho hội họa Việt Nam ở các triển lăm
trên thế giới: ở Pa-ri, ở San-Francisco, ở Java, ở Batavia, ở Hồng Kụng, Nhật
Bản… Điều này tạo môi trường thuận lợi cho hội họa Việt Nam bước đầu làm quen
với thế giới.
Những
năm sau 1934, tranh lụa phát triển khác đi. Nghệ thuật vẽ lụa của các tác giả
lúc này có phần khá hơn trước. Tranh lụa thời kỳ này bớt dần tính cách dân tộc
học, họa sĩ muốn khẳng định cá tính độc đáo hơn, muốn đổi mới phong cách sáng
tác. Màu sắc cũng biến đổi. Đề tài biểu hiện nhân vật có chiều hướng tự do cá
nhân, biểu hiện bản lĩnh độc đáo của từng tác giả.
Thế
hệ tiếp theo hầu như chuyên vẽ lụa: Trần Văn Cẩn, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Tiến
Chung vẫn giữ vững phong cách tả thực với những nền nếp dân tộc. Lờ Yờn, Nguyễn
Đức Nùng, U Văn An, Nguyễn Văn Quế có những khả năng đa dạng về nghệ thuật lụa.
Đề tài chuyển từ sinh hoạt nông thôn ra thành thị. Những cô gái khỏe mạnh duyên
dáng làm ăn trên đồng ruộng đă chuyển thành những cô gái thành thị ẻo lả. Cách
vẽ có phóng khoáng, đa dạng hơn về ḥa sắc và bút pháp nhưng lại tẻ nhạt về
cách nh́n. Khung cảnh sinh hoạt trên tranh đă thu hẹp lại ở một khu vườn, góc
nhà, căn buồng, quanh quẩn nhỡn cỏc góc độ về mấy nhân vật mẫu.
Giai đoạn 1945 đến trước
đổi mới
Thực
tiễn Cách mạng tháng Tám năm 1945 dần dần đem lại hướng sáng tác mới cho tranh
lụa cũng như mọi loại h́nh tranh vẽ của Việt Nam. Dòng tranh vẽ lụa truyền
thống có cơ sở để phát triển đúng đắn hơn, có ý thức hơn về bước đường phát
triển nghệ thuật của mình, trong lòng cuộc cách mạng lớn của đất nước.
Tháng
8/1946, triển lăm Mĩ thuật toàn quốc trình bày một sắc thái mới với hình ảnh
những em bé tẩm dầu, chị nông dân xuống đồng cấy lúa được thể hiện ngay trên các
bức tranh lụa.
Thời
kỳ kháng chiến chống Pháp, tranh lụa thay đổi hẳn môi trường và đối tượng miêu
tả. Khuôn khổ vẽ có nhỏ hơn, đề tài và bố cục thay đổi hẳn: những anh thanh
niên du kích, hành quân, những chị phụ nữ đeo ba lô đi công tác, nhân dân tản
cư trong hang …..
Từ
năm 1948, sau cuộc Đại hội văn nghệ toàn quốc tổ chức ở Đào Dă, tranh lụa được
vẽ nhiều hơn và chất lượng vượt hẳn những năm đầu kháng chiến. Tranh lụa dần đi
vào những chủ đề lớn của dân tộc như về cuộc chiến tranh nhân dân, về t́nh quân
dân. Tiêu biểu là các bức tranh: “Cỏi bát” (Sỹ Ngọc); “Bộ đội giă
gạo, Du kích Cảnh dương” (Nguyễn Văn Tỵ); “Quán tản cư, Mần xanh”
(Phạm Văn Đôn); “Cán bộ đi công tác” (Lương Xuân Nhị); “Tản cư trong
hang, Con đọc bầm nghe” (Trần Văn Cẩn); “Mừng thắng lợi cải cách ruộng
đất” (Tạ thỳc Bỡnh); “Gặp nhau” (Mai Văn Hiến)…
Chín
năm kháng chiến chống Pháp, tranh lụa đă phát triển từ thể loại phong tục sinh
hoạt tiến lên những đề tài cách mạng, kháng chiến. Cách tạo hình không chỉ là
mảng, mà sử dụng đậm nhạt vượt khỏi ranh giới các mảng hình. Màu sắc được sử
dụng rộng răi hơn, đă sử dụng nét kết hợp với mảng. Từ hình thức dân tộc, nghệ
thuật đi vào tả thực, gắn sát với cuộc sống chiến đấu nhiều màu vẻ. Từ nghệ
thuật dân tộc, tranh lụa mang tính cách xă hội.
Sau
năm 1960, thế hệ trẻ không kém phần hăng say chuyên môn hóa về lụa, các họa sĩ
tiêu biểu như: Nguyễn Thụ, Thanh Ngọc, Thế Minh, Mai Long… Đặc biệt là đă xuất
hiện nhiều tác giả nữ vẽ tranh lụa như: Phan Thị Hà với hai bức: “Gió gạo
miền quê, kiểm tra vải”; Minh phương với: “Tuốt lúa ngày mùa, Thanh niên
miền núi”; và các tác giả nữ khác: Nguyễn Thị Phúc, Nguyễn Thị Thùy, Hoàng
Minh Hằng… đều có tác phẩm tốt.
Sau
năm 1975, các họa sĩ vẽ tranh lụa ngày càng đông, người ta nhận thấy có nhiều
dấu hiệu cách tân đáng mừng.
Giai đoạn từ đổi mới đến
nay
Trong
một bài nói chuyện, họa sĩ Đỗ Đức có một nhận xét rất vui rằng “Các họa sĩ
Việt Nam từ sau đổi mới giống như con dao pha, mỗi chất liệu đụng vào một tí,
nhưng chẳng mấy người chuyên sâu vào chất liệu nào cả đời”. Nhận xét này
đặc biệt đúng với tranh lụa, một thể loại dễ mà khó. Sau họa sĩ Nguyễn Phan
Chánh, không có một họa sĩ nào chuyên sâu vào vẽ tranh lụa, mặc dù ai cũng
“chấm” vào nó một chút, họa sĩ nào cũng từng thử vẽ lụa, có một vài bức kỉ niệm
rồi lại buông.
Những
năm sau đổi mới, do nhu cầu của thị trường, nhiều họa sĩ lao vào vẽ lụa nhưng
đó là cuộc vận động tự phát của thị trường. Vào thời điểm tạm coi là vàng son
đó, đă nảy ra những “sáng tạo” như dùng bột màu trát lên lụa không rửa, dùng
tempera cho chảy nhớt lên mặt lụa. Lối làm cách tân xa rời truyền thống không
mang phong cách đặc trưng lụa ấy dù chỉ một thời gian ngắn nhưng đă là thứ
thuốc độc ngấm dần, góp phần làm hao mòn danh tiếng của tranh lụa.
Những
năm gần đây, nghệ thuật tranh lụa Việt Nam có phần chững lại, không có nhiều
họa sĩ đeo đuổi sang tác với chất liệu này. Họa sĩ trẻ hiếm khi quan tâm đến
tranh lụa.
Những
triển lăm chuyên đề tranh lụa 2007 do Vụ Mĩ thuật và Nhiếp ảnh, Bộ văn hóa –
thể thao và du lịch tổ chức tại Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam (20/12-31/12) là một
sự kiện trọng đại nhằm mục đích chấn hưng nghệ thuật vẽ tranh lụa Việt Nam. Đây
là lần đầu tiên những người vẽ lụa hoặc quan tâm tới tranh lụa toàn quốc có cơ
hội được cùng nhau góp mặt cho sự trở về của lụa. Với 578 tác phẩm của các họa
sĩ ở 40 tỉnh thành trên cả nước gửi tới dự thi, trong đó có 154 bức được chọn
treo ở Triển lăm là một dấu hiệu đáng mừng cho sự “chấn hưng” của một loại h́nh
nghệ thuật đang trong giai đoạn “thoái trào”.
Trong
số 320 họa sĩ gửi tranh đến Triển lăm, có thể kể ra một số gương mặt tiêu biểu
như: họa sĩ Vũ Đính Tuấn với bức “Chiều Hoàng thành”; họa sĩ Nguyễn Phúc
Lợi với bức “Nắng chiều”; họa sĩ Lê Xuân Dũng với “Chiều thứ bảy”…
Đây là một trong số đại biểu tuy không phải là đỉnh cao nhưng tác phẩm của họ
lóe lên vệt sáng mới rất đáng tin cậy. Điều này thực sự đáng mừng cho nghệ
thuật tranh lụa. Bên cạnh đó, cũng có một loạt tác giả nữ khá ấn tượng có duyên
thầm với lụa như: Đoàn Bích Thủy (Lạng Sơn), Chế Kim Chung (Ninh Thuận), Mai
Xuân Oanh (Sơn La), là những họa sĩ ở xa Hà Nội nhưng thật sự cứng cỏi về tay
nghề. C̣òn một loạt tác giả trẻ khác cũng đầy hứa hẹn như Ngô Thị Bích Hạnh,
Quan Thị Phong, Trần Thị Phương Liên, Yến Nguyệt, Phạm Thanh Vơn…Tất cả đều khá
vững chăi tự tin trong chất liệu.
Ý
nghĩa
Sự sáng tạo của hoạ sĩ Việt Nam đưa nền đỡ lụa thành một thể
loại riêng” hội hoạ trên lụa” làm cho các sợi tơ óng ả trực tiếp tham gia vào
việc diễn tả nghệ thuật về cả hai phương diện tạo hình và biểu cảm.
Về
thể loại trang mang nội dung dân dã, nông thôn, hình vẽ không nhiều chi tiết cầu
kỳ, chải chuốt nhưng rất gợi cảm. Màu sắc đằm thắm dựa trên gam nâu trầm ấm rất
hợp với đề tài. Tuy đơn giản nhưng rất tinh tế, hoàn hảo. Tranh lụa có một phong cách, dấu ấn
riêng, nổi bật ở cách nhìn dung dị, chân thực, đậm chất nhân văn với khả năng
kết nối giữa tinh thần, hình thể dân gian của người Việt và ý niệm không gian
phương Đông cùng cách biểu đạt bảng màu đơn giản nhưng đa sắc.
Nhìn
chung, sưu tập tranh lụa Việt Nam đã khẳng định sự phát triển của nghệ thuật
tranh lụa Việt Nam qua các giai đoạn, đồng thời khẳng định vị trí song hành của
nó cùng các tác phẩm màu dầu, sơn mài trong nền nghệ thuật tạo hình Việt Nam.
Tuy
nhiên, cần phải nói là trong bộ sưu tập tranh lụa tại Việt Nam từ thập niên
1990 đến nay, số lượng các tác phẩm lụa được sưu tập rất hạn chế so với các tác
phẩm sử dụng chất liệu còn lại như màu dầu, sơn mài, đồ họa và điêu khắc (tỉ lệ
chưa được 5%). Mặt khác, các tác phẩm được sưu tập cũng không đặc sắc. Rõ ràng
là trên bình diện chung của mỹ thuật đương đại Việt Nam, tranh lụa vừa có số lượng
ít vừa có chất lượng nghệ thuật không cao.
Có
nhiều nguyên nhân đã tác động:
Thứ
nhất, khả năng diễn đạt của chất liệu lụa trong các tác phẩm có giới hạn. Ở mức
độ nhất định, các công đoạn sáng tác một bức lụa đích thực đòi hỏi rất nhiều thời
gian, qua đó làm giảm khả năng ung phấn, xúc cảm thăng hoa của nghệ sĩ.
Thứ
hai, “nội lực” của nhiều họa sĩ sáng tác tranh lụa không cao, dẫn đến sự thiếu
đầu tư chiều sâu; bởi vậy chỉ dừng lại ở mức độ dễ xem hay “đẹp” về mặt thị
giác.
Thứ
ba, trong thời buổi kinh tế thị trường, khi mà các tác phẩm chất liệu màu dầu,
sơn mài được khách hàng ưa chuộng thì sự đáp ứng giữa cung và cầu là điều tất yếu
xảy ra, cũng vì lẽ đó, không còn nhiều họa sĩ chuyên tâm tới sự sáng tạo tác phẩm
ở thể loại lụa nữa.
Nguồn:
5. http://thachthuxa.wordpress.com/2012/10/25/tranh-lua-viet-nam-qua-trnh-hnh-thanh-phat-trien-va-cac-ki-thuat-ve-co-ban/
ps: như mọi lần. Đây chỉ là nội dung tham khảo mình tập hợp lại. Mong giúp dc các bạn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét