2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
2.1.1 Cơ sở lý luận
Về mặt không gian , cương vực Hồi giáo trải
dài từ Morocco tới Indonesia , từ Kazakhstan đến Senegal . Về mặt
thời gian , đạo này đã có hơn 14 thế kỷ , tính từ lúc Đấng tiên
tri bắt đầu giảng đạo tại bán đảo Ả -rập vào thế
kỷ thứ 7 và ngài đã chủ trì dựng ra 1 cộng đồng và 1 đất
nước Hồi giáo . Trong giai đoạn mà các sử gia châu Âu gọi là
thời kỳ đen tối chen giữa sự suy tàn của nền văn minh cổ đại – Hy lạp
và La mã - và sự trổi dậy của văn minh cận đại – Châu
Âu , thì Hồi giáo là 1 nền văn minh chủ đạo trên thế giới
, đựơc đánh dấu bởi các vương quốc to
lớn và hùng mạnh , có nền kỹ nghệ và thương mãi phong
phú và đa dạng , nền khoa học và văn chương độc
đáo và sáng tạo . Hồi giáo , vượt xa hơn Cơ đốc giáo nhiều mặt
, là giai đọan trung gian giữa Đông phương cổ đại và
Tây phương cận đại trong đó có phần đóng góp đáng kể của
tôn giáo này . Tuy nhiên trong 3 thế kỷ vừa qua , thế
giới Hồi giáo đã đánh mất thế thống trị và vai trò lãnh
đạo , và đã tụt hậu sau cả phương Tây hiện
đại lẫn phương Đông cách tân một cách nhanh chóng . Cái
hố ngăn cách càng ngày càng rộng này đã đặt
ra những vấn đề cấp bách , cả về mặt thực tiển lẫn
tình cảm , mà cho tới nay các nhà lãnh đạo , nhà tư tưởng
và kẻ nổi lọan của Hồi giáo vẫn chưa
tìm ra được câu trả lời phù hợp
Hồi giáo là một tôn giáo độc thần thuộc
nhóm các tôn giáo xuất phát từ Abraham, là tôn giáo lớn thứ hai trên thế giới.
Hồi giáo hiện tại đang phát triển vô cùng nhanh chóng với lượng tín đồ đông đảo
hơn 1 tỷ. Hồi giáo chia làm hai nhánh lớn
là dòng Sunni và dòng Shia, trong đó Sunni vẫn chiếm phần nhiều hơn.
Hồi giáo ra đời vào thế kỉ thứ 7 tại
bán đảo Ả Rập, do thiên sứ Muhammad nhận mặc khải của thượng đế truyền lại cho
con người qua thiên thần Jibrael. Với tôn chỉ Allah là đấng tối cao, không có
hình dáng, là Đấng Duy Nhất, đạo Hồi đã tạo nên cho mình những nét văn hoá độc
đáo, chỉ duy nhất Hồi giáo có. Đối với các tín đồi, Muhammad là vị thiên sứ cuối
cùng được Allah mặc khải Kinh Qu’ran qua thiên thần Jibrael.
Tuy cùng một hệ thống nhất thần của các tôn giáo khởi
nguồn từ Abraham nhưng
giáo lý Hồi giáo không chịu ảnh hưởng tư tưởng của Ki
tô giáo và Do
Thái giáo. Không như những tôn giáo bạn,
đạo Hồi chỉ có duy nhất một quyển thiên kinh Qur'an, gồm có 114 chương, 6236 tiết. Đối với các tín đồ Hồi giáo,
thiên kinh Qur'an là một vật linh thiêng, vì đó chính là lời phán của Allah Đấng
Toàn Năng. Đối với đông đảo tín đồ, năm bổn phận được qui định trong kinh
Qur’an của Tín đồ Hồi giáo chi phối nhịp điệu đời sống của họ, ảnh hưởng đến
nhiều mặt hoạt động cũng như tinh thần của họ.
Hệ thống
niềm tin
SHAHADAH là sự tuyên xưng và đồng thời
là điều cốt lõi trong đức tin của một tín đồ. Nó bao gồm việc lặp lại hai câu:
"Không có Chúa
Trời nào khác ngoài Allah", và "Mohammed là sứ giả của Ngài". Các tín
đồ Islam nhắc lại những câu này hàng ngày khi cầu nguyện. Việc coi Mohammed là sứ giả cuối cùng của Chúa đã phân biệt Islam với Kitô
giáo và Do
Thái giáo.
SALAT là việc cầu
nguyện. Tín đồ Islam phải cầu nguyên năm lần một ngày, vào lúc bình minh, giữa
trưa, giữa chiều, khi mặt trời lặn và tối. Tín đồ có thể cầu nguyện tại bất cứ
đâu - tại trường học, nơi làm việc, tại nhà hay ngoài trời - nhưng phải theo
quy định. Trước khi cầu nguyện, tín đồ phải ở trong một trạng thái tinh thần và
thể xác thanh khiết. Trước tiên họ phải súc miệng, sau đó rửa mặt, cổ, tay và
chân.
ZAKAT là sự bố
thí. Theo Kinh Koran, một người phải trao cho người khác "những thứ dư thừa".
Vì thế cột trụ thứ ba liên quan đến việc trao một tỉ lệ nào đó tài sản của một
người cho người nghèo và người gặp cảnh không may.
SAWM là việc nhịn
ăn. Mọi tín đồ Islam phải nhịn ăn vào ban ngày trong tháng Ramadan, trừ trẻ em,
người già và những người ốm đau bệnh tật. Những người đang có việc phải đi xa
không phải nhịn ăn, nhưng họ sẽ nhịn bù sau đó. Cuộc sống như dừng lại trong
tháng Ramadan, nhiều cửa hiệu đóng cửa cho đến sau buổi cầu nguyện trưa. Người
Islam tin rằng trong tháng Ramadan, cửa thiên đường sẽ mở ra và cửa địa ngục
đóng lại, và mọi lỗi lầm sẽ được tha thứ. Đây là thời gian dành cho sự suy tưởng
tôn giáo. Tín đồ hay trở dậy vào ban đêm để đọc Kinh Koran và đến giáo đường nhiều hơn ngày thường. Vào ngày kết
thúc tháng
Ramadan có một lễ hội lớn với rất nhiều đồ ăn và quà tặng. Đó là
lễ Eid al-Fitr, kỉ niệm việc chấm dứt thời kì ăn chay.
HAJJ là việc hành
hương. Ít nhất một lần trong đời, những tín đồ Islam có khả năng phải hành
hương tới thánh địa Mecca. Việc hành hương thể hiện sự phục tùng Chúa Trời và
diễn ra vào tháng thứ 12, tháng cuối cùng của năm Islam. Eid al Adha, lễ hiến tế,
đánh dấu ngày kết thúc kì hành hương, kéo dài trong mười ngày.
2.1.2. Cơ sở thực tiễn
Hồi giáo thế giới thế kỉ 20
Sự xuất hiện của đạo
Hồi đã đánh dấu một bước ngoặt quyết định trong lịch sử phát triển của người
Arap và bán đảo Arabia. Gần mười bốn thế kỷ trước, người Arap, hợp nhất nhau lại
bởi một niềm tin vào tôn giáo mới là đạo Hồi, do Muhamad đề xướng, đã vươn ra
ngoài phạm vi bán đảo Arabia và bước ra vũ đài lịch sử rộng lớn. Dưới triều đại
của những người kế tục nhà tiên tri Muhammad là các khalif, họ đã tạo dựng được
một nhà nước khalifat rông lớn, trải dài từ Pirene (Tây Ban Nha) đến tận cửa Ấn
Hà (Ấn Độ). Và lần đầu tiên kể từ thời Alecxandr Makedon, người Arap đã nối liền
phương Tây và phương Đông, Địa Trung Hải La Mã và thế giới Ấn Độ - Iran.
Cũng giống như mọi
tôn giáo khác, Hồi giáo là một hiện tượng xã hội mà quá trình nảy sinh và phát
triển do nguyên nhân khách quan và chủ quan của riêng nó. Trong ba tôn giáo lớn
trên thế giới là Cơ Đốc giáo, Phật giáo và Hồi giáo, thì Hồi giáo là tôn giáo trẻ
nhất. Kể từ khi ra đời, bên cạnh các tôn giáo khác, Hồi giáo đã có những ảnh hưởng
đến lịch sử xã hội loài người, mà ngay hiện nay vẫn còn tác động đến nhiều
vùng, nhiều quốc gia, dân tộc. Bên cạnh đó, Hồi giáo cũng là nguồn cảm hứng cho
các nền văn mình lớn ngoài tín đồ Hồi giáo cho những sáng tạo và thành tựu đa đạng
tạo nên sự trù phú của thế giới ngày nay. Tuy nhiên, những thế kỉ trở về đây, sự
phát triển của Hồi giáo, đặc biệt sao sự kiện ngày 11.09.2001, đã khiến nhiều
người phải có cách nhìn khác về Hồi giáo.
Theo nhận thức của
phương Tây, chiến tranh vùng vịnh năm 1991, có sự tham gia của Hoa Kì, liên
minh Ả Rập cùng các đồng minh, phát động giải phóng Kuwait khỏi xâm lược bởi
Irag và bảo vệ Saudi Arabia và nhằm bảo vệ Saudi Arabia
chống lại sự tiến công của Iraq. Tổng thống Bush và các chính khách
phương Tây đã khá chật vật để chỉ ra rằng cuộc chiến mà
nước Mỹ đang tham gia là cuôc chiến chống lại chủ nghĩa khủng bố, chứ
không phải là chống người Ả Rập, hoặc nói rộng hơn là chống lại
người Hồi giáo. Nhưng đối với bin Ladin và những người theo
ông ta đây là cuộc chiến tôn giáo, cuộc chiến của người Hồi
giáo chống lại những kẻ vô đạo, cũng tức là chống lại nước Mỹ, cuờng quốc
lớn nhất trong thế giới của những kẻ vô đạo .
Vào ngày 23/2/1998,
tờ báo Al-Quds al-‘Arabi, xuất bản tại Luân Đôn, đã in toàn văn tuyên bố của Mặt
trận Hồi giáo thế giới kêu gọi thánh chiến chống lại bọn Do thái và Thập tự
chinh. Theo tờ báo, tuyên bố này, có chữ kí của Usama bin Ladin và các nhà lãnh
đạo khác, với lời văn hùng hồn đã đưa ra 1 lối giải thích lịch sử khác, và ngập
mùi hiếu chiến.Tuyên bố mở đầu bằng các đoạn trích trong Qur’an, kèm theo lời của
tiên tri Muhammad: “Kể từ khi Thượng đế dựng nên bán đảo Ả- rập, có sa mạc, có
biển bao quanh, thì chưa hề có tai hoạ nào giái xuống cho đến khi bọn Thập tự
chinh ào đến như … và đây là lúc mà các nước chống lại người Hồi giáo…”
Theo trường
phái giáo luật Hồi giáo được nhà nước Saudi Arabia và Usama bin Ladin công nhận,
thì việc đặt chân lên đất thánh đối với người Hồi giáo là một sự xúc phạm nặng
nề. Từ năm 1930 trở đi, dầu mỏ được phát hiện và khai thác tại bán đảo Ả Rập,
khiến người nước ngoài du nhập ồ ạt đã mang lại nhiều thay đổi tại nỏi này. Tuy
nhiên, vẫn có ý kiến về việc coi đây là một sự bang bổ thần linh.
Dần dần các cường
quốc đã đặt căn cứ quân sự và can thiệp và tình hình nội bộ cũng như chính trị
của khu vực. Khi sự can thiệp này chỉ dừng ở mặt kinh tế, các tín đồi Hồi Giáo
đã chấp nhận sự hiện diện của người nước ngoài thông qua các đền bù vật chất.
Nhưng các năm gần đây, điều kiện này đã thay đổi, khiến cho tình hình, bất bình
càng trở nên nội trội và ồn ào, đặc biệt cuộc xung đột Israel – Palestine. Hơn
nữa, khi liên quan tới đất thánh, người Hồi giáo có xu hướng nhìn dưới góc tôn
giáo. Họ cho rằng quân Hoa Kì chỉ là quân vô đạo và xăm lăng.
Tại nhiều nước,
các nước Hồi giáo, tôn giáo vẫn là yếu tố văn hoá chính trị. Các vấn đề đối nội
còn quan trọng hơn trong vùng hoặc quốc tế. Trong khi các nước theo Kitô giáo
đã không còn mang nhiều tính chất tôn giáo trong chính trị, thì phần lớn nước
theo đạo Hồi vẫn còn bị ảnh hưởng sâu sắc. Tính thiêng liêng của Hồi giáo gần
như là điều cấm kỵ, không được bình phẩm hay thảo luận, kể cả trên các xã hội
thế thục và dân chủ về hình thức. Mức độ tin tưởng và thực hành tôn giáo của
tín đồ Hồi giáo cao hơn những tín đồ thuộc tôn giáo khác, có thể coi là một
trong những nguyên nhân của tính chất trên. Hồi giáo không chỉ là niềm tin và
thực hành mà còn là một bản sắc và sự trung thành, không có gì vượt qua được.
Nhìn bề
ngoài, thì việc du nhập các ý niệm phương tây về lòng ái quốc
và chủ nghĩa quốc gia đã thay đổi mọi thứ và đưa tới sự
thành lập một lọat các nhà nước cận đại, đã mở rộng thế giới
Hồi giáo từ Morocco tới Indonesia , nhưng những cái lộ ra bề mặt không
phải là tất cả. Năm 1923, sau chiến tranh lần chót giữa Hilạp và Thổ,
2 chính phủ đồng ý giải quyết các vấn đề về nhóm dân thiểu số bằng
cách trao đổi cho nhau - người Hi lạp được chuyển từ Thổ sang Hi lạp và
người Thổ từ Hi lạp sang Thổ. Ít nhất thì đó cũng là những
gì mà các sách lịch sử thuật lại. Nhưng thực tế lại có phần khác
hẳn. Trong nghị định thư mà 2 nước ký tại Lausanne năm
1923, chỉ nêu ra thỏa thuận trao đổi, không hề nói đến"người Hi
lạp"và "người Thổ”. Nghị định thư nêu rõ những người được
trao đổi là"công dân Thổ theo đạo Chính thống Hi lạp đang
sống tại Thổ nhĩ kỳ và" công dân Hi lạp theo đạo
Hồi đang sống tại Hi lạp". Như vậy nghị định
thư chỉ thừa nhận có 2 lọai bản sắc
- một là xác định theo công dân của 1 quốc gia, còn cái
kia là tín đồ của 1 tôn giáo. Nghị định thư không hề nhắc đến
tính chất dân tộc về mặt chủng tộc hoặc ngôn ngữ . Một quan sát viên
Tây phương , quen theo hệ thống phân lọai phương tây , có thể kết
luận rằng những gì mà các chính phủ Hi lạp và Thổ nhĩ kỳ thỏa
thuận và đạt được không phải là sự trao đổi và hồi hương của
các nhóm thiểu số Hi lạp và Thổ nhưng đúng ra là vừa trục xuất và
vừa lưu đày - người Hi lạp Hồi giáo về Thổ nhĩ kỳ, và người Thổ Cơ đốc về
Hi lạp.
Đạo Hồi không
thừa nhận 1 thể chế riêng rẽ, có tôn ti trật tự và luật pháp
riêng, để điều phối những vấn đề tôn giáo. Yếu tố này xuất hiện
từ vụ khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, khi ủng hộ cuộc chiến của
Ai cập chống lại Israel, các nước Ả Rập sản xuất dầu mỏ sử dụng
việc cung cấp dầu và nâng giá dầu thành 1 vũ khí
rất hiệu qủa. Sự giàu có, hãnh diện và tự
tin đựơc củng cố thêm bởi 1 yếu tố mới – đó là sự
khinh bỉ. Khi tiếp xúc gần gũi với châu Âu và Mỹ, các du
khách đạo Hồi bắt đầu nhận xét và xem những
gì họ thấy đựơc như là sự suy đồi đạo đức
và coi đó là sự yếu đuối của nền văn
minh phương Tây .
Trong 1 thời
đại đầy rẩy những cung bậc cường điệu, các ý thức hệ chao
đảo, lòng trung thành nhàm chán, và các định chế rệu
rã, thì 1 ý thức hệ được diễn đạt bằng thuật ngữ đạo
Hồi đã đưa ra đựơc nhiều ưu điểm: là 1 cơ sở hết sức quen
thuộc về bản sắc riêng của từng nhóm người, là tình
đoàn kết và chỉ dành cho người trong nhóm ; một cơ sở chấp nhận được
về tính chính đáng và thẩm quyền ; một cách phát biểu dễ hiểu
ngay về các nguyên tắc phê bình của hiện tại và 1
chương trình hành động trong tương lai. Qua đó, Hồi giáo có thể
đưa ra các biểu tượng và khẩu hiệu hữu hiệu nhất để
huy động nhằm ủng hộ hay chống lại 1sự nghiệp hoặc
1 chế độ .
Các phong trào Hồi
giáo cũng có 1 lợi thế cực kì khác không hề giống với các phong trào khác. Tại
các đền thờ, thánh đường, họ đều xây sựng 1 hệ thống liên hết và thông tin mà
ngay cả các chính phủ độc tài nhất cũng không thể kiểm soát hế được. Hơn nữa,
việc này vốn được các nhà độc tài giúp sức, để loại trừ các nhóm đối lập cạnh
tranh.
Chủ nghĩa Hồi
giáo cấp tiến ( Radical Islamism ), mà ta thường gọi là Hồi giáo
chính thống ( fundamentalism), thật ra không phải là 1 phong
trào đồng nhất đơn độc .Có nhiều kiểu chính thống Hồi
giáo tại nhiều nước khác nhau và đôi khi thậm chí chỉ
trong cùng 1 nước. Một số đựơc nhà nước bảo trợ - được chính phủ
này hay chính phủ Hồi giáo khác công nhận , sử dụng và tích
cực vận động vào các mục tiêu riêng của họ; một số
là các phong trào quần chúng đích thực do nhân dân lập
ra. Trong số các phong trào Hồi giáo do nhà nước bảo trợ lại
có nhiều loại, cấp tiến và bảo thủ, có tính lật đổ và ngăn chặn
( preemptive). Các phong trào bảo thủ và ngăn chặn là
do các chính phủ đang cầm quyền xướng ra , nhằm để tự bảo vệ họ
khỏi làn sóng cách mạng. Đó là các phong trào nhiều lần đựơc các
chính phủ Ai cập, Pakistan và nhất là Saudi Arabia khuyến
khích. Còn loại kia, có tầm quan trọng hơn nhiều , từ cơ sở
đi lên, có nền tảng bình dân thực sự. Phong trào đầu
tiên trong loại này chiếm được quyền lực và hành công nhất
trong sử dụng quyền lực là cách mạng Hồi giáo
tại Iran .
Không
gian văn hoá Ả Rập
Quê hương của người Arap cổ đại là Arabia - một bán đảo lớn
trên trái đất, có thể coi như một Á lục địa thật sự, nếu xét về mặt diện tích
(3 triệu km2), và tính chất biệt lập tương đối của nó. Nơi đây, theo các nhà khảo
cổ học, từ hơn hai ngàn năm trước công nguyên người Arap cổ đại đã từng sinh sống
và góp phần tạo nên nền văn minh Tây Á. Về mặt từ nguyên Arab có nghĩa là khô hạn,
hoang hóa (chỉ vùng đất cùng cư dân), từ này do sử dụng lâu, nghĩa của nó ngày
càng được mở rộng hơn, dần dân trở thành thuật ngữ: Arabia (bán đảo Arap), Arap
(người Arap), và al-arabia (tiếng Arap). Những người Arap từ thời xa xưa đã gọi
bán đảo này là Djazirat al-arab (tiếng Arap có nghĩa là đảo của người Arap), vì
họ thầy vùng đất rộng lớn này tứ phía được bao quanh bởi biển và sông: Phía
Đông Bắc là sông Efrat xuôi theo dòng chảy bao bọc, phía Tây Bắc là bờ biển
Palestin của Địa Trung Hải, phía Tây là Biển Đỏ, phía Nam là biển Arab, phía
Đông là vịnh Persich. Trên vùng đất khô cằn này, các bộ lạc Arap du mục và định
cư sống đan xen nhau. Vào thế kỷ VI những người dân du mục (beduin) Arap đã kiểm
soát phần lớn đất đai của bản đảo này, mặc dù họ không chiếm đa số dân cư trong
vùng. Theo con số thống kê gần đúng, số dân định cư trên bán đảo Arap thời ấy
khoảng hơn 4 triệu, trong khi số dân du mục chỉ khoảng 3 triệu (1). Trong suốt
thời gian dài 18 thế kỷ, từ thời nguyên thủy đến giai đoạn trung thế kỷ, những
quan hệ thương mại của các nước tương đối phát triển, được tiến hành xuyên qua
sa mạc Arap, còn vùng bờ biển vịnh Ba Tư do các thương đoàn kiểm soát (2). Cần
nhắc lại rằng, vào những thế kỷ đầu của kỷ nguyên chúng ta, vai trò dân định cư
ở bán đảo Arap yếu dần di, trong khi ảnh hưởng của dân du mục ngày càng lớn
hơn. Họ (dân du mục) ngày càng thâm nhập sâu hơn vào những vùng lãnh thổ do dân
định cư đã chiếm giữ và bắt đầu kiểm soát nhiều con đường thương thảo và ốc đảo.
Quá trình này kéo dài từ thế kỷ IV đền thế kỷ VI: tính tích cực về chính trị của
người dân du mục ngày càng cao, các bãi chăn thả thuộc quyền kiểm soát của họ
ngày càng được mở rộng thêm.
v Tiểu vương quốc Ả Rập - UAE
UAE là một đất nước bao gồm 7 tiểu
vương quốc nhỏ hợp lại với một nền văn hóa và lịch sự phong phú, đa dạng, nhiều
đặc điểm của một nền văn hóa hồi giáo.Các thành phố (tiểu vương quốc) lớn:Abu
Dhabi, Dubai, Sharjah. Các thành phố (tiểu vương quốc) nhỏ:Ajmān, Fujairah, Ras
al-Khaimah, Umm Al Quwain. Trong đó Abu Dhabi là thủ đô và là thành phố lớn nhất,
Dubai là một điểm đến rất được ưa thích của các nhân vật nổi tiếng.
UAE ngày nay là một đất nước trẻ trung,
hiện đại với nhiều công trình xây dựng mới lạ, độc đáo. UAE hiện là một trong
những điểm đến thu hút khách bậc nhất tại Trung Đông. Sa mạc với những cồn cát
chạy dài, một vài ốc đảo xanh mát luôn thu hút du khách khám phá với những tour
thám hiểm sa mạc. UAE còn là một đất nước hiện đại với những tòa nhà có kiến
trúc độc đáo, tiêu biểu là tòa tháp cao nhất thế giới mới được khánh thành năm
2009, nhiều khu nghỉ mát, du lịch, vui chơi nhân tạo khổng lồ. Về mặt kinh tế,
UAE cũng là trung tâm tài chính thương mại hàng đầu thế giới, với nhiều trung
tâm mua sắm lớn cũng như các điểm trao đổi lưu chuyển tiền tệ. UAE hiện được
xem là điểm đến an toàn và thu hút nhiều du khách nhất tại khu vực. Với chính
sách khuyến khích và thu hút du khách và các nhà đầu tư trên khắp thế giới, UAE
luôn mở cửa và sẵn sàng chào đón tất cả mọi người tới vào bất kỳ thời điểm nào
trong năm.
v Thủ đô Abu Dhabi
Abu Dhabi là thủ đô của UAE, cũng là tiểu
vương quốc lớn nhất của đất nước này. Đây cũng là một trong số những thành phố
hiện đại bậc nhất thế giới. Từ một thị trấn khiêm tốn với vài ngàn dân với các
công trình nhỏ truyền thống giữa thập niên 1960, thành phố đã đạt được những
tăng trưởng vượt bậc trong mấy thập niên qua. Abu Dhabi và thủ đô cùng tên bao
gồm sa mạc, bờ biển và những đô thị hiện đại nhưng vẫn giữ được nét văn hoá
truyền thống. Abu Dhabi được xem là thủ đô văn hóa của khu vực..
Abu Dhabi là một trung tâm tài chính,
giao thông vận tải của khu vực giàu dầu mỏ. Với dân số chỉ khoảng 420.000 người
và trung bình một người có tài sản ít nhất khoảng 17 triệu USD, Abu Dhabi còn
được CNN gọi là thành phố giàu nhất thế giới. Thành phố Abu Dhabi được xây dựng
trên một hòn đảo gần đất liền và có một cảng nước sâu nhân tạo quan trọng có
tên gọi là Zayed. Thành phố cũng có một sân bay quốc tế. Về lĩnh vực tài chính
Abu Dhabi mạnh hơn Dubai vì có nhiều dầu hỏa. Abu Dhabi là nhà sản xuất dầu lớn
nhất thế giới, ước tính chiếm hơn 9% số dầu dự trữ thế giới.
Tại Abu Dhabi du khách có thể tham quan
nhiều công trình hiện đại và tráng lệ bậc nhất thế giới như Abu Dhabi Mall
(trung tâm thương mại lớn nhất thế giới), cũng như nhiều kiến trúc cổ của văn
hóa hồi giáo. Abu Dhabi có những kiến trúc văn hóa thật là tuyệt vời, siêu đẳng
được đánh giá như những kỳ quan, tạo cho tiểu vương quốc này có những nét ấn tượng
riêng, nổi trội hẳn so với các nước trong vùng Vịnh Arab. Đó là những kiến
trúc văn hóa gồm có văn hóa Hồi giáo xen lẫn nét kiến trúc hiện đại của nhân loại.
Abu Dhabi còn là nơi cư ngụ của các
hoàng gia Emirates. Thủ đô xinh đẹp của UAE này cũng là nơi nhiều ngôi sao,
nguyên thủ quốc gia các nước tìm đến nghỉ ngơi, thư giãn. Michael Jackson,
Justin Timberlake, Will Smith hay Sir Elton John... đều đã ghé thăm Abu Dhabi -
Paris của phương Đông và họ đều hài lòng với cảnh quan, công trình kiến trúc tại
đây.
Văn
hoá Ả Rập
Văn hóa Arap - Hồi giáo được sử dụng,
như một khái niệm, phần nào mang tính ước lệ, với nội hàm. Đó là nền văn hóa bằng
tiếng Arap của người Arap và các dân tộc theo đạo Hồi. Về mặt lịch đại, nền văn
hóa này được hình thành và nở rộ dưới các triều đại vương quốc Hồi giáo
Khalifat ở giai đoạn từ thế kỷ VII-XII. Việc hình thành của nền văn hóa này là
quá trình tạo dựng, tác động qua lại, giao thoa, tiếp nhận và ảnh hưởng lẫn
nhau giữa các nền văn hóa của người Arap và của các dân tộc bị chinh phục, gia
nhập vương quốc Hồi giáo Khalifat ở Trung cận Đông, Trung Á, Bắc Phi và một phần
Tây Nam Âu.
Trên lãnh thổ bán đảo Arap trước khi Hồi
giáo xuất hiện, tồn tại nền văn hóa của những cư dân Arap du mục và định cư
canh nông, ở giai đoạn sơ kỳ của hình thái xã hội đã phân chia giai cấp. Đại diện
của nền văn hóa này là những cư dân theo đa thần giáo. Từ khoảng thế kỷ thứ II
đến IV, văn hóa Arap cổ đại chịu ảnh hưởng của các nền văn hóa: Iêmen, Xiry-Hylạp,
Do Thái và Iran cổ đại.
Khi đạo Hồi xuất hiện vào thế kỷ VII, sự
thống nhất về nhà nước - chính trị do người Arap tạo dựng nên, công thêm sự thống
nhất về tôn giáo, và ở trong phần lớn các vùng do người Arap chiếm đóng có cả sự
thống nhất về ngôn ngữ, đã tạo điều kiện cho sự hình thành những hình thái
chung của đời sống văn hóa của các dân tộc thuộc nhà nước Khalifat Hồi giáo
này. Ở thời kỳ đầu, việc hình thành văn hóa Arap chủ yếu diễn ra như quá trình
khám phá, đánh giá lại và phát triển sáng tạo những thành tựu có từ trước,
trong những điều kiện tư tưởng, chính trị xã hội mới (đạo Hồi và nhà nước
Khalifat) và tiếp thu những nền văn hóa của các dân tộc bị chinh phục (Hy lạp cổ
đại, Hy-La, Aramei, Iran, Ấn Độ...). Bản thân người Arap cũng đóng góp vào đấy
những hợp phần quan trọng: đạo Hồi, tiếng Arap và truyền thống thi ca cùng vốn
văn chương truyền miệng (chủ yếu của người Arap du mục). Một phần đóng góp lớn
vào văn hóa Arap thuộc về các dân tộc khác, mà, khi theo đạo Hồi, đã đồng hóa với
những kẻ đi chinh phục, tiếp nhận ngôn ngữ của họ, “trở thành người Arap” và
tham gia tích cực vào quá trình tạo dựng văn hóa Arap, làm phong phú thêm nền
văn hóa này bằng những truyền thống do họ kế thừa được từ các dân tộc phương
Đông và thế giới cổ đại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét