1.2 Nghệ thuật mặt nạ
a. Tổng quát
Mặt nạ trong Kinh kịch được gọi là kiểm phổ. Không chỉ là
một hình thức đi kèm với diễn xuất để làm vở tuổng trở nên sinh động hơn, mặt
nạ Kinh kịchcòn là một loại hình nghệ thuật đặc sắc của người Trung Quốc. Qua
hình dáng, và máu sắc của mặt nạ, người xem có thể nhận dạng được tính cách
nhân vật. Các nhân vật đều được xây dựng với một tính cách đặc trưng để người
xem dễ hiểu, do vậy những chiếc mặt nạ càng phát huy tác dụng của mình. Các
tính cách đặc trưng như trung thành, gian trá, lương thiện, xấu xa, cao thượng
hay thấp hèn. Mỗi loại như vậy, đều sử dụng những màu nhất định chủ đạo. Những
màu sắc này, nhìn chung trên thế giới được nhìn nhận gần giống nhau trong ý
thức tương quan ý nghĩa.
Lịch sử Kinh kịch hơn 200 năm, đã tích lũy được những chuẩn mực có tính công thức cho hệ thống trình diễn như phục sức, hình thức biểu diễn (ca, nói, vũ đạo) và đặc biệt là chuẩn mực kiểm phổ. "Qua nhiều năm phát triển, phương pháp vẽ kiểm phổ, kiểm phổ tiêu biểu cho cái gì, đặc điểm và quy trình vẽ đều có quy ước riêng, những khán giả quen thuộc chỉ cần nhìn mặt là biết ngay nhân vật nào trong vở kịch nào. Từ đó cũng thấy được quan điểm và xu hướng tình cảm đặc thù của người Trung Quốc đối với các nhân vật lịch sử... Kiểm phổ chính là bằng chứng phát triển hoàn thiện của thủ pháp tả ý ước lệ trong Kinh kịch, hiểu rõ ý nghĩa tượng trưng mà kiểm phổ muốn thể hiện sẽ giúp ích cho việc tìm hiểu cốt truyện của tuồng kịch. Sau khi kiểm phổ đã có chỗ đứng vững chắc trong nghệ thuật biểu diễn hí kịch, mặt nạ vẫn chưa bị phế bỏ, ví dụ như khi diễn các vở kịch về đề tài cát tường và thần thoại vẫn còn “mặt nạ thần tài”, “mặt nạ thần sấm”..., vẫn còn tình trạng mặt nạ và kiểm phổ cùng xuất hiện trên sân khấu" (sđd, trang 13).
Lịch sử Kinh kịch hơn 200 năm, đã tích lũy được những chuẩn mực có tính công thức cho hệ thống trình diễn như phục sức, hình thức biểu diễn (ca, nói, vũ đạo) và đặc biệt là chuẩn mực kiểm phổ. "Qua nhiều năm phát triển, phương pháp vẽ kiểm phổ, kiểm phổ tiêu biểu cho cái gì, đặc điểm và quy trình vẽ đều có quy ước riêng, những khán giả quen thuộc chỉ cần nhìn mặt là biết ngay nhân vật nào trong vở kịch nào. Từ đó cũng thấy được quan điểm và xu hướng tình cảm đặc thù của người Trung Quốc đối với các nhân vật lịch sử... Kiểm phổ chính là bằng chứng phát triển hoàn thiện của thủ pháp tả ý ước lệ trong Kinh kịch, hiểu rõ ý nghĩa tượng trưng mà kiểm phổ muốn thể hiện sẽ giúp ích cho việc tìm hiểu cốt truyện của tuồng kịch. Sau khi kiểm phổ đã có chỗ đứng vững chắc trong nghệ thuật biểu diễn hí kịch, mặt nạ vẫn chưa bị phế bỏ, ví dụ như khi diễn các vở kịch về đề tài cát tường và thần thoại vẫn còn “mặt nạ thần tài”, “mặt nạ thần sấm”..., vẫn còn tình trạng mặt nạ và kiểm phổ cùng xuất hiện trên sân khấu" (sđd, trang 13).
Màu sắc thường được sử dụng trong vẽ kiểm phổ gồm màu đỏ - tính cách trung thành nhất mực; màu trắng – tính cách gian trá, độc ác; màu xanh dương – tính cách kiên cường, dũng cảm; màu vàng – đại diện cho thần phật, quý quái…
Thông quá kiểm phổ, tính cách của người nghệ sĩ thể hiện mạnh mẽ trong từng tác phẩm. Mỗi mặt nạ được vẽ phải có tính chăm chút kể cả về thái độ, giống như viết tay, hay vẽ tranh. Nghệ nhân vẽ mặt nạ bằng loại bút chuyên dụng, sử dụng khó nên yêu cầu về tính chính xác và tỉ mỉ cao. Nghệ thuật vẽ mặt nạ Kinh kịch không chỉ nằm ở việc chọn màu sắc phù hợp với nhân vật, hoạ tiết thanh nhã mà có hồn, mà còn ở việc vẽ phù hợp với khuôn mặt của diễn viên.
Với người nghệ nhân vẽ kiểm phổ, bút và màu mực đều được
trân trọng như nhau. Trong đó, màu mực được ví như vàng. Nguyên nhân là do
nguyên liệu phải bền, không hại sức khoẻ, phải giữ được màu lâu và tươi. Yêu
cầu đối với màu mực vẽ kiểm phổ tương đối cao. Với người nghệ nhân, chỉ có
những màu vẽ tốt mới vẽ ra những “ tác phẩm” sống động, có hồn, và được mọi
người yêu thích. Họ cho rằng, mặt nạ tạo nên cá tính nhân vật, dũng khí của
người diễn viên và chỉ có mặt nạ đẹp mới mang lại hiệu quả tốt cho vở kịch.
Nghệ thuật vẽ mặt nạ không thể sao chép từ sách, hay nói
cách khác không thể rập khuôn. Đối với những người tập sự, họ thường xuyên
luyện tập vẽ trên mô hình, sao chép từ các hình mẫu. Người tập sự chỉ được công
nhận khi họ thành thạo việc sử dụng màu sắc, hoạ tiết, và sự tương quan giữa
khuôn mặt và mặt nạ. Tuỳ theo khuôn mặt diễn viên mà thu hẹp hay mở rộng cách
vễ. Ngày nay, những nghệ nhân này còn học cả giải phẩu học, hình hoạ học để
hoàn thiện thêm kĩ năng của mình.
Có nghiên cứu cho rằng, mặt nạ dùng trong Kinh kịch, được
vẽ trực tiếp lên mặt người, thay vì sử dụng mặt nạ bằng giấy, có hiệu quả tốt
hơn. Khán giả bị thu hút bởi kiểm phổ do sự chuyển động của các cơ mặt khiến
cho mặt nạ sinh động và gây hiệu ứng thích thú từ khán giả. Người diễn viên Kinh
kịchgiỏi là khi họ nhuần nhuyễn trong việc thể hiện cảm xúc, đồng bộ cùng mặt
nạ họ đang mang, để tạo nên sự hấp dẫn cho nhân vật.
Theo Paul và Bernice Noll, mặt nạ Kinh kịch gồm 14 nhóm
khác nhau. Đối với giới Kinh kịch, mặt nạ đẹp phải được vẽ thủ công, và tuỳ vào
người vẽ sao cho phù hợp với khuôn mặt của người diễn viên. Vì vậy, những chiếc
mặt nạ vốn đã đa dạng và phong phú về thể loại lại có rất nhiều dị bản, cũng
như bổ sung chỉnh sửa. Ban đầu, việc phân loại mặt nạ chủa phổ biến, chủ yếu là
phân loại theo kiểu nhân vật, như Tào Tháo, Quan Vũ, Trương Phi, Mộc Quế Anh …
Hiện nay để phân loại mặt nạ Kinh kịchdựa vào các yếu tố sau, màu sắc chủ đạo,
hoạ tiết chính, và khuôn của mặt nạ.
-
Mặt trơn ( Full face) : mặt trơn với
tông màu chủ đạo: đen, đỏ, trắng.
-
Mặt ba mảng ( Three-tile Face) :
dựng ( Up- right), hoa ( Flowered), nhọn ( Pointed) và lão ( Old)
-
Mặt chữ thập ( Cross Face) : chủ yếu
dành cho: mặt lão ( Old) và đốm ( Variegated).
-
Mặt sáu phần mười ( Six – Tenth
Face) dành cho mặt thường và mặt lão ( Old)
-
Mặt hoa ( Broken- flower Face) gồm
những màu xanh, đen, đen bất đối xứng ( astmmetric) và trắng xoáy
( Twisted)
-
Mặt thầy tu ( Monk Face) với màu
trắng, vàng.
-
Mặt thầy pháp ( Taoist Face) gần
giống đạo Lão.
-
Mặt hoạn quan ( Eunuch Face)
-
Mặt hình thỏi bạc ( Ingot Face) chia
làm mặt thường ( Ordinary), ngược ( Inverted ) và hoa ( Flowered)
-
Mặt mang biểu tượng ( Symbolic Face)
-
Mặt thần tiên ( Fairy Face)
-
Mặt hề ( Clown Face) bao gồm hề dân
gian ( Civilian), hề ác ( Ugly) và hề lính già ( Old warrior).
-
Mặt khoa trương ( Heroic Face)
-
Mặt yêu quái ( Demon Face)
b. Nghệ thuật vẽ mặt nạ
·
Mặt
trơn:
Đây
là kiểu mặt có cách vẽ gần giống mặt người tự nhiên nhất. Người ta phủ toàn bộ
da mặt bằng màu chính yếu đại diện cho tính cách nhân vật, sau đó vẽ cách điệu
thêm mắt, lông mày, mũi, miệng. Kỹ thuật vẽ mặt kiểu này dùng những nét vẽ nhỏ,
mảnh, chính xác và dứt khoát.
Để vẽ mặt Quan Vũ, trước
tiên người ta thoa toàn mặt màu đỏ, sau đó vẽ lông mày và mắt bằng những đường
màu đen, những vạch dài trên trán và hõm mũi sậm màu mô tả một người phi thường
do bởi vẻ uy nghi và tôn quý.
Tào Tháo là nhân vật đa
nhân cách, một mặt có tính cách ám muội, dối trá, mưu mô mặt khác lại có tài
thao lược trong quân sự và chính trị. Khuôn mặt Tào Tháo được phủ toàn bộ màu
trắng thể hiện bản chất quỷ quyệt, mắt ti hý gãy góc với những nếp nhăn đằng
chuôi cho thấy một tính cách xảo trá.
Khuôn mặt Bao Công được
vẽ màu đen có cặp lông mày trắng đang nhíu lại để thể hiện tính cách Trung Quốc,
hiếu dân và thượng tôn pháp luật. Vầng trăng trên trán thể hiện sức mạnh bí ẩn
giúp Bao Công giao tiếp với trần thế vào ban ngày và âm phủ vào ban đêm.
Tuy nhiên, ba màu trên
đại diện những nhân vật có cá tính mạnh, chưa đáp ứng nhu cầu đa dạng trong các
vở kinh kịch.
·
Mặt ba mảng:
Kiểu mặt ba mảng là một
trong các kiểu mặt phổ biến nhất cũng như có nhiều biến thể nhất.Trong kiểu vẽ
mặt này, các yếu tố mắt, lông mày và mũi được cường điệu lên bằng ba mảng màu,
hai mảng màu gọi là hốc mắt (eye sockets) được vẽ xung quanh hai mắt và một hố
mũi (nose pit) xung quanh mũi. Ba mảng màu này tựa như mấy viên ngói được xếp
chồng lên nhau nên tiếng Anh mới có khái niệm là "three-tile" (ba
viên ngói). Với kiểu mặt này, màu chủ đạo là màu nền phía dưới ba mảng màu bên
trên.
Kiểu mặt ba mảng dựng đại
diện cho tính cách trung thành và can đảm. Lông mày được vẽ gần như thẳng đứng
với mắt to và hõm mũi tròn. Mặt kiểu này thường có màu đỏ, trắng hay tía.
Khương Duy mang mặt đỏ với biểu tượng lưỡng nghi rất đặc biệt trên trán, thể hiện
việc ông là môn đồ của Gia Cát Lượng với khả năng "thông thiên văn, hiểu địa
lý" như thầy.
Dou Er Dun là một trong
những kiểu mặt đẹp và phức tạp trong Kinh kịch, khuôn mặt được chăm chút bằng
những nét và đốm tinh xảo xung quanh mắt và lông mày. Dou Er Dun là một thảo
khấu nên mặt có màu xanh, giữa trán vẽ hình một cái lưỡi nhọn để biểu tượng cho
cái xóc hai lưỡi là vũ khí đặc biệt của nhân vật này.
Kiểu mặt ba mảng nhọn
được phân biệt bởi lông mày cong hoặc nhọn với mắt thường được vẽ xếch lên. Kiểu
mặt này có rất nhiều màu và nhân vật mang mặt này cũng rất đa dạng. Wang Lin là
bạn của Lưu Ban, ông có công trong việc cứu gia đình Lưu Bang khỏi tay Xiang
Xu, sau khi nhà Hán thành lập, ông trở thành thừa tướng của triều đại này.
Kiểu
mặt ba mảng lão vẽ những nhân vật già với đặc điểm là mí mắt sệ xuống, các cơ mặt
cũng được vẽ chùng lại như "đám mây thấp", hố mũi vẽ màu đen hay xám
để chỉ tình trạng "hoa râm" của nhân vật. Cheng Pu là hình ảnh của một
người đàn ông thông minh và đầy kinh nghiệm, người có khả năng giải quyết những
tình huống khó khăn bằng trí lực.
·
Mặt chữ thập:
Cách
gọi này xuất phát từ chữ Trung Quốc: 十字门脸 (shízìmén liǎn). Mặt này được biến thể
từ kiểu vẽ mặt ba mảng, màu chủ đạo của nhân vật là màu của đường kẻ dọc kéo từ
trán xuống đầu mũi. Đường kẻ này kết hợp với đường ngang nối hai hốc mắt tạo
thành một chữ thập giữa mặt. Những nhân vật kẻ mặt chữ thập đều là nhân vật
chính diện như là anh hùng hay dũng tướng. Nếu vùng trắng xung quanh hai mắt được
mở rộng một chút để trông giống như hai cánh chim, kết hợp với sống mũi vẽ đen
sẽ cho khuôn mặt giống hình con chim ác (magpie), vì thế mặt kiểu này được gọi
là mặt chim. Khi hốc mắt và mũi được vẽ dính liền nhau, khuôn mặt có hình dạng
một con bướm xòe cánh, khi này mặt được gọi là mặt bướm. Nếu mặt bướm được
trang trí thêm một vài họa tiết trên trán và xung quanh mắt thì khuôn mặt có
tên là mặt bướm hoa (flowery butterfly face).
Khuôn mặt của Hạng Vũ
là độc đáo và duy nhất với mày rối và mắt chùng, mô tả hết sức sinh động hình ảnh
bi tráng của một đấng anh hùng.
Trương Phi là một danh
tướng rất được dân chúng yêu mến và ngưỡng mộ, ông có tính cách khẳng khái, bộc
trực và rất nóng nảy, cùng võ nghệ siêu phàm kết hợp với sự dũng cảm và coi cái
chết nhẹ tựa lông hồng. Nhưng ít ai biết được Trương Phi viết chữ rất đẹp và là
một họa sĩ có biệt tài vẽ mỹ nhân.
·
Mặt Sáu phần mười:
Mặt kiểu này là biến thể
của mặt trơn, sỡ dĩ có tên này là do màu chính yếu chiếm tới 6 phần khuôn mặt,
màu này được vẽ trên toàn bộ hai gò má và trên đường kẻ dọc ở giữa trán. Phần
trán còn lại thường được vẽ màu trắng còn lông mày thì lại được giản lược bớt,
có khi chỉ còn là hai đốm hình oval trên mặt.
Mặt sáu phần mười có lối
vẽ rất đơn giản, nhưng đây lại là kiểu mặt của giới quyền cao chức trọng như
quân sư, quý tộc hay là vua.
"Những kiểm phổ mà
khán giả thường thấy đa phần đều là của "Hoa kiểm", loại vai này được
gọi là "Tịnh". Nhân vật vai này đều là nam, tính tình thô lỗ, phóng
khoáng, thích nói chuyện lớn tiếng, thường xuyên la lớn, khi nôn nóng, căng thẳng
còn động tay, động chân". Đây là mô tả về tính
cách của mặt hoa trong cuốn Kinh kich Trung Quốc giới thiệu bên trên (trang
69).
Mặt hoa có hai dạng
chính là mặt nét gãy (broken pattern) và biến dạng (deformed pattern). Mặt hoa
nét gãy được biến thể từ mặt hoa ba mảng và mặt chữ thập bướm hoa, nghệ sỹ vẽ
các đường cong trên trán, mắt, lông mày và cả trên hai gò má để tạo ra các hình
dạng phong phú và đa dạng. Màu chính yếu được quy ước nằm trên trán, thông thường
khuôn mặt kiểu này được vẽ bởi rất nhiều màu nhắm tạo những hiệu ứng ấn tượng
cho khuôn mặt.
Ma Wu mang mặt hoa màu xanh, nét bút được vẽ tỉ mỉ nhằm
làm cho khuôn mặt thô ráp và hoang dã là hình ảnh điển hình của một thảo khấu
chốn rừng xanh.
Xu
Chu là cận vệ của Tào Tháo, ông được mô tả là người cao lớn, mạnh mẽ nhưng đầu
óc giản đơn và trung thực nên có biệt danh là "cọp khờ" (Tiger Pool).
Mặt Xu Chu mang màu đen, những nét vẽ cong, đứt đoạn cùng những đốm chấm dưới mắt
và mày làm khuôn mặt trông rất dữ.
Kiểu mặt hoa biến dạng, giống như tên gọi, mô tả một khuôn mặt bị biến dạng
trong một trạng thái cảm xúc không bình thường. Thường khuôn mặt này là mặt của
tội phạm hay là mô tả một hành vi phạm tội.
Mặt
Zhen Ziming bị biến dạng do một con thú vồ khi ông này đang cố cứu một người
khác lúc còn tuổi trẻ, khuôn mặt có một vết sẹo trên trán và có cả dấu của vết
cào ở một bên má.
Năm loại mặt bên trên mô tả thế giới của những người bình thường, tuy nhiên Kinh kịchcòn cả một thế giới khác thường nữa, đó là thế giới của đạo sĩ, của thần tiên, của quái vật. Khuôn mặt của những nhân vật kiểu này được mô tả bằng những biểu tượng có tính ám chỉ rất đặc biệt, thường hốc mắt được vẽ hình bầu dục, quanh mũi và miệng là những họa tiết hình hoa, trên trán bao giờ cũng có những dấu hiệu như, lưỡng nghi biểu trưng cho đạo Lão hay ngọc tỉ, chín dấu chấm biểu trưng cho Phật giáo.
Bên cạnh tu sĩ còn có
hoạn quan cũng thuộc loại người không bình thường, hoạn quan trong Kinh kịchchỉ
có hai màu mặt là đỏ và trắng. Tính cách thường không tốt đẹp, không chuyên quyền
thì cũng thích hành hạ và cai trị người ta. Lông mày được vẽ mỏng và xếch ngược,
hốc mắt vẽ bầu bầu tựa con dao phay ám chỉ sự chết chóc, khóe miệng thì trễ xuống
cộng với những nếp nhăn được kéo thõng cho thấy tính cách trí trá của hạng người
này. Điều tức cười nhưng chính là dụng ý của nghệ thuật vẽ mặt, hoạn quan bao
giờ cũng có hình ngọc tỉ trên trán, cho
thấy họ là đệ tử Phật
nhưng mỉa mai thay rằng "miệng nam mô nhưng bụng ngậm bồ dao găm"
Mặt mang biểu tượng:
Là một phần rất đặc sắc của Kinh kịch, khuôn mặt này thể hiện nhân vật thần thoại thường xuất hiện trong những vở kịch chuyển thể từ truyện cổ tích. Không có tiêu chuẩn chung nào để vẽ loại mặt này, tuy nhiên người nghệ sỹ phải hóa trang sao cho khuôn mặt gồm màu sắc và đường nét phải đại diện cho con quái vật hay vị thần mà mình muốn mô tả.
Là một phần rất đặc sắc của Kinh kịch, khuôn mặt này thể hiện nhân vật thần thoại thường xuất hiện trong những vở kịch chuyển thể từ truyện cổ tích. Không có tiêu chuẩn chung nào để vẽ loại mặt này, tuy nhiên người nghệ sỹ phải hóa trang sao cho khuôn mặt gồm màu sắc và đường nét phải đại diện cho con quái vật hay vị thần mà mình muốn mô tả.
Đây
là mặt Tôn Ngộ Không trong vở "Đại náo thiên cung", diễn viên đóng
vai này phải hóa trang cho thật giống con khỉ huyền thoại rất nổi tiếng này.
Đây là mặt của
con quỷ đội lốt báo trong vở kịch "Núi Hồng đào", con qủy này chiếm
núi Hồng đào và cướp vợ của điền chủ, cuối cùng nó bị bắt bởi thiên binh.
·
Mặt thần tiên:
Đây là biến thể của loại
mặt trơn và mặt ba mảng, thường là mặt Phật hay Thánh. Màu nhũ vàng và bạc, biểu
tượng cho sự thiêng liêng và tôn kính là hai màu chủ đạo của kiểu mặt này.
Mặt
Lý Thiên Vương là kiểu mặt ba mảng nhọn với hình thanh long đao màu nhũ vàng
trên trán, trong vở "Đại náo thiên cung" Ngọc Hoàng đã phái Lý Thiên
Vương xuống bắt Tôn Ngộ Không để dẹp loạn.
Mặt khoa trương và mặt yêu quái:
Mặt khoa trương và mặt yêu quái:
Về
cơ bản, hai loại mặt này gần giống như mặt mang biểu tượng, chúng thường là những
vai phụ nên cách vẽ cũng khá đơn giản nhằm đễ dễ phân biệt với các vai chính
trong một vở kịch.
· Mặt
hề:
"
Xét trên chức năng hí kịch của kiểm phổ, dù nhân vật thuộc thể loại vai nào đều
có thể vẽ kiểm phổ, khi cần thiết phải làm nổi bật hình tượng và diện mạo của
nhân vật. Thường thì hai dạng nhân vật Tịnh (vai tà) và Sửu (vai hề) có nhiều
kiểm phổ nhất. Thông thường, đối với những khán giả thích kiểm phổ thì đại đa số
đều tập trung quan sát vai Tịnh, nhưng vai Sửu trong Kinh kịchmới là dạng vai đầu
tiên được vẽ kiểm phổ trong lịch sử Kinh kịch... Kiểm phổ của các nhân vật khác
nhau cũng có sự khác biệt rõ nét. Nhưng so ra thì kiểm phổ của vai Sửu lại đơn
giản hơn vai Tịnh, nhưng các nhân vật hàng Sửu lại đa dạng và phức tạp hơn nhiều,
hiệu quả nghệ thuật diễn xuất cũng khá nổi bật so với vai Tịnh. Vì vậy kiểm phổ
của vai Sửu vừa tinh tế và có chiều sâu hơn, không phải đơn thuần chỉ vẽ mấy “mảng
đậu phụ” (mảng màu trắng to bằng một miếng đậu phụ được vẽ ở giữa mặt) mà thôi,
và cho dù chỉ là vẽ “mảng đậu phụ” như nhau, nhưng vị trí vẽ và kích thước to
nhỏ cũng sẽ mỗi người mỗi khác, và cũng tùy theo từng vở kịch".
Hệ thống vai hề chiếm vị
trí rất quan trọng trong Kinh kịch. Người ta dùng thủ pháp biếm họa để thể hiện
khuôn mặt hề, một bệt trắng như miếng đậu phụ được vẽ chính giữa mặt, trùm lên
toàn bộ chóp mũi, có thể có nhiều hình dạng khác nhau như tròn, tam giác, đa
giác. Đây là đặc điểm chính yếu để nhận diện mặt hề.
Jiang Gan trong vở
"Quần anh hội" là một ví dụ điển hình của mặt hề. Khuôn mặt được vẻ
nhằm cho thấy một người có bề ngoài thông minh nhưng thực chất lại rất ngốc nghếch.
Xue Ba là một trong hai
tên cướp được phái đi giết Lâm Xung trong vở "Dã trư lâm" dựa trên cốt
truyện Thủy Hử.
"Trong vai Sửu, có
một số đóng vai nham hiểm, gian xảo, tham lam, ích kỷ, nhưng nhiều hơn hết là
các vai thông minh, lanh lợi, cảnh giác, hài hước, thậm chí còn rất ngay thẳng,
chính trực, hiền lành. Trong hí kịch tryền thống, thông thường những nhân vật có
địa vị không cao đều do vai Sửu đóng. Nhưng xét về tính cách, những người này
đa phần đều rất hài hước, hoạt bát, khá lạc quan. Phải nói rằng nhân vật thuộc
hàng Sửu nhiều hơn các vai Sinh, vai Đán và vai Tịnh, từ hoàng thượng, tướng
quân, thừa tướng, cho đến tầng lớp bình dân, những người què, điếc, mù, câm,
nam, nữ, già, trẻ, người tốt, người xấu, trung thần, kẻ gian đều có thể dùng
vai sửu để thể hiện" (sđd, trang 70). Quả đúng
"Vô Sửu bất thành hí"!
·
Mặt nữ:
Mặt nữ:
"Đán" là tên
gọi để chỉ vai nữ ngược với "Sinh" để chỉ vai nam. Có lẽ vở "Bá
Vương biệt cơ" sau này được dựng thành phim là một "show diễn"
thành công trong việc giới thiệu Kinh kịchra với thế giới. "Bá Vương biệt
cơ" là vở kịch của vai Đán, vở kịch kể về mối tình thiên cổ của kiêu hùng
Sở Bá Vương Hạng Vũ với tuyệt đại mỹ nhân Ngu Cơ đã cùng chết đẹp trong ngày
tàn binh bại.
Khi vẽ mặt vai nữ, cách
đánh phấn, thoa son, vẽ chân mày, vẽ đường viền mắt, hình môi là những điểm cần
chú ý nhưng cách dán hoa mới là điểm nổi trội. "Cách dán hoa của vai Đán
tức là vẽ tóc mai ở hai bên má của diễn viên vai Đán và dán hoa ngay trên phần
tóc trên trán, ưu điểm là có thể thay đổi khuôn mặt một cách tự nhiên, giúp cho
khuôn mặt mang vẻ đẹp của thời đại đó, và cũng phù hợp với yêu cầu của vở kịch"
(sđd trang 139).
Mộc Quế Anh (穆桂英- Mu Gui Ying) là một nhân vật hư cấu
trong các giai thoại về Dương Gia Tướng. Theo đó, bà được mô tả là một nữ tướng
dũng cảm, kiên quyết và trung thành, được xem là hình tượng của một người phụ nữ
kiên định trong văn hóa Trung Quốc.
2.3 Sự phục hồi của nghệ thuật Kinh kịch
a. Chính sách nhà nước bảo tồn nghệ thuật Kinh kịch
Được nhìn nhận là tinh hoa nghệ thuật truyền thống
dân tộc, Kinh kịch đã được chính phủ Trung Quốc ra sức nâng đỡ. Ngoài
việc xây dựng một nhà hát lớn mang tên Trường An quanh năm biểu diễn Kinh
kịch, còn có các cuộc thi biểu diễn Kinh kịch trong nước và Quốc tế thu
hút nhiều người hâm mộ, không những thế Kinh kịch còn được chọn là chương
trình bảo lưu trong giao lưu văn hóa giữa Trung Quốc với nước ngoài.
Hiện tại Kinh kịchđược biểu diễn rộng rãi thường xuyên tại các rạp và trên
truyền hình.
Tháng 7 năm 2010, Bộ Giáo dục Trung Quốc đã sửa lại tiêu chuẩn môn học âm nhạc trong 9 năm giáo dục bắt buộc học nội dung Kinh kịch, và chọn 20 trường trung tiểu học của mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc và Khu tự trị dân tộc bao gồm 10 địa phương như Bắc Kinh, Thiên Tân… làm thí điểm, học sinh từ lớp 1 đến lớp 9 sẽ học hát trích đoạn của 15 vở Kinh kịch nổi tiếng. Chính sách "Đưa môn học Kinh kịch vào trường học" tiến triển thuận lợi, đã giúp thanh thiếu niên tăng thêm hiểu biết và niềm yêu thích đối với Kinh kịch.
Trong những năm gần đây, Kinh kịch đã gây tiếng vang trên thế giới nhờ vào hai bộ phim là “Bá Vương Biệt Cơ” và “Forever Enthralled” (Đời nô bộc) cùng của đạo diễn Trần Khải Ca và do Chương Tử Di đóng vai chính. Hai bộ phim này ngoài khía cạnh là những bộ phim tâm lý tình cảm sâu sắc còn mô tả rất chân xác về nghệ thuật Kinh kịch và về cuộc đời của những nghệ nhân Kinh kịchnổi danh một thời của Trung Quốc như Mai Lan Phương, Trình Nghiên Thu, Thượng Tiểu Vân…
Gần đây, việc cải biên một số tác phẩm văn học nổi tiếng
sang kịch bản Kinh kịch thực sự đã làm nên sự hấp dẫn, mới mẻ cho Kinh kịch. Đặc
biệt, tác phẩm "Ông lão đánh cá và con cá vàng" của thi hào
Puskin được chuyển thể thành Kinh kịch mới đây đã rất cuốn hút các khán giả
trẻ, làm cho họ có hứng thú đối với nghệ thuật dân tộc. Vở kịch
"Ông lão đánh cá và con cá vàng" tuy được thể hiện bằng
hình thức Kinh kịch truyền thống, nhưng đã thêm nhiều yếu tố hiện đại
bám sát tâm lý thanh thiếu niên.
Các vở Kinh kịch hiện đại thường xuyên được công diễn
đã không chỉ làm thế hệ trẻ tăng thêm hiểu biết đối với Kinh kịch, và
tôn vinh nghệ thuật Kinh kịch Trung Quốc, một di sản lớn của văn hóa thế
giới, mà thực sự đã có được sự yêu thích, mến mộ của đông đảo các tầng lớp khán
giả.
Những cố gắng của các cơ quan hữu trách Trung Quốc
nhằm kế thừa duy trì và phát triển nghệ thuật Kinh kịch hòng bảo tồn một
giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc thực sự đang được phát huy rất hiệu quả.
Điều này càng thêm ý nghĩa khi vào tháng 11 năm 2010, Tổ chức giáo dục, khoa
học và văn hóa Liên Hợp Quốc UNESCO đã chính thức công nhận Kinh kịchlà di sản
văn hóa phi vật thể của nhân loại. Đây là một quyết định đúng đắn và kịp thời,
nó mang một ý nghĩa lớn lao hòng cứu vãn cho nền nghệ thuật sân khấu thế giới
những mất mát đáng tiếc. Mặt nạ là nghệ thuật đặc sắc nhất trong Kinh
kịch. Qua mặt nạ có thể khán giả có thể nhận biết các nhân vật
trung thành hoặc gian trá, tốt đẹp hay xấu xa, lương thiện hay gian ác,
cao thượng hay thấp hèn. Ví dụ như, nặt nạ tô đỏ thể hiện nhân vật
trung thành nhất mực, nếu là màu trắng thì nhân vật đó có tính
cách gian trá, độc ác, màu xanh lam thể hiện nhân vật đó kiên cường
dũng cảm, màu vàng nói nên nhân vật đó tàn bạo, màu vàng hoặc màu
bạc tượng trưng cho thần phật hoặc quỷ quái, khiến khán giả có một
cảm giác huyền ảo. Thông thường cho rằng, cuối thế kỷ thứ 18 là
thời kỳ phát triển rầm rộ nhất của Kinh kịch. Hồi đó, không những
tuồng sân khấu dân gian rất phồn thịnh, mà trong Hoàng cung cũng
thường xuyên tổ chức biểu diễn tuồng sân khấu. Bởi vì các Hoàng gia
quý tộc thích xem Kinh Kịch, điều kiện vật chất ưu việt trong cung
đình đã cung cấp sự giúp đỡ về các mặt biểu diễn, quy chế về trang
phục, hóa trang mặt nạ, phông cảnh sân khấu v v ... sân khấu tuồng dân
gian trong hoàng gia quý tộc và dân gian ảnh hưởng lẫn nhau, khiến Kinh
kịch đã có sự phát triển chưa từng có.
b. Nghệ thuật bảo tồn Kinh kịchtrong dân gian
Bên cạnh những biện
pháp chính trị xã hội do nhà nước xây dựng trong việc phục hồi các giá trị truyền
thống của loại hình nghệ thuật Kinh kịch, mà thời gian gần đây, chính người dân
cũng dần nhận thức được vẻ đẹp và giá trị của loại hình nghệ thuật này.
Bản thân người dân Trung
Quốc, với lối suy nghĩ thực tế, đã đưa các giá trị trở thành sản phẩm kinh
doanh, mang lại giá trị sống, cải thiện đời sống của họ. Tuy nhiên, đây là một
vấn đề cần được giám sát và quản chế kĩ lưỡng. Các giá trị truyền thống cần được
lưu truyền, nhưng quan trọng là vẫn mang trong mình ý nghĩa dân tộc của nó.
Với sự phát triển của
công nghệ thông tin, nghệ thuật truyền thống Kinh kịch dần được biết rộng rãi, tạo
nên nhu cầu tìm hiểu và sưu tầm những vật dụng liên quan. Cũng như các cửa hàng
buôn bán đạo cụ dần trở nên phổ biến, đặc biệt là mặt nạ. Mặt nạ như một biểu
tượng của Kinh kịch, lại có số lượng đa dạng, phong phú về mặt hình thức là một
mặt hàng được ưu chuộng trong cuộc sống bình dân.
Mặt nạ Kinh kịch như một
phần của kho tàng văn hoá Trung Quốc, là đặc trưng của Kinh kịch nói riêng và
văn hoá Trung Quốc nói chung. Người Trung Quốc vận dụng sự khéo léo và tinh tế,
chuyển tải hình ảnh này lên hầu hết bề măt nào có thể. Mặt nạ được vẽ trên các
phiên bản nhỏ, thể hiện nhiều sắc thái khác nhau. Ngoài ra, các mẫu kiểm phổ
cũng phổ biến như một hình thức trang trí phổ biến trong các mặt hàng tiêu dùng
của Trung Quốc. Không chỉ từ lĩnh vực hàng tiêu dùng như ly, chén đĩa, hay hàng
thủ công mỹ nghệ mà đến lĩnh vực thời trang cũng xuất hiện hình ảnh của những
chiếc mặt nạ Kinh kịch. Họ sử dụng hình ảnh lên quần áo, giảy dép, cho đến
trang sức, phụ kiện, kể cả lĩnh vực nail cũng bỏ sót. Có thể nói họ tận dụng
triệt để hình tượng này, không chỉ mang lại tác dụng mang nghệ thuật sân khấu đến
gần với người dân, khiến cho hình ảnh gắn bó với người dân, mà còn mang lại lợi
ích về kinh tế. Điều này, cho thấy tính thế tục rất rõ trong tư duy của người Trung
Quốc.
Một trong những yếu tố
thành công tạo nên sự đồng thuận trong việc kinh doanh “di sản” là yếu tố đồng
nhất, hay tiêu chuẩn chung. Những sản phẩm khác nhau về mẫu mã, loại hình, hay
nơi sản xuất, tất cả đều có điểm chung về tính chính xác của bản vẽ. Dù ở Bắc
Kinh, Thượng Hải, hay ở nước ngoài, các mặt hàng có hình ảnh mặt nạ Kinh kịch đều
có sự giống nhau trong hình ảnh. Có thể coi đó là tiêu chuẩn chung, tỏ rõ sự
trân trọng của người Trung Quốc đối với linh hồn dân tộc. Họ có thể kiếm tiền từ
di sản văn hoá, nhưng lại yêu cầu tính chính xác cho yếu tố đó, đảm bảo sự
trong sạch, thuẩn tuý của di sản đó. Dường như nguyên tắc đó, sự đồng nhất của
một dân tộc vô cùng đa dạng, đã trở thành biểu trưng của người Trung Quốc, tạo
nên thế mạnh thống nhất, ấn tượng đoàn kết trước mắt bạn bè thế giới.
Bên cạnh đó, những khuyết điểm còn tồn tại chính là sự đầu tư tràn lan và sự phong phú của các mặt hàng có hình ảnh mặt nạ Kinh kịch. Để đáp ứng nhu cầu lớn về cung ứng sản phẩm, các mặt nạ lưu niệm với kích thước nhỏ thường không được chau chuốt, phần nào làm mất đi vẻ đẹp, sự tinh tế của kiểm phổ. Đối với các mặt hàng gia dụng, hình tượng mặt nạ biểu trưng của Kinh kịch được sử dụng rộng rãi, tạo nên nguy cơ giảm tính thiêng, sự trân trọng đối với hình tượng này. Như hình ảnh mặt nạ Trương Phi xuất hiện trên các tấm bài tây. Sử dụng đúng cách tạo nên tiềm lực phát triển và ý nghĩa nhân văn cho hình tượng mặt nạ Kinh kịch, nhưng khi mức sử dụng trở thành lạm dụng lại tạo nên những phản ứng ngược cho chính hình tượng đó.
3. Kết luận
Kinh kịch xuất hiện và
phát triển trong khoảng thời gian gần 200 năm ở Trung Quốc nhưng mang trong
mình những đặc tính đại diện của họ, trở thành biểu tượng văn hoá trước thế giới.
Cùng với sự thăng trầm của lịch sử, Kinh kịch Trung Quốc có giai đoạn kiệt quệ,
suy yếu. Nhưng từ khi nhận thức được vẻ đẹp, người Trung Quốc dành sự tôn trọng
đáng nể dành cho loại hình nghệ thuật này. Bên cạnh việc tuyên truyền ý thức bảo
vệ các giá trị truyền thống, cùng việc chủ động mang văn hoá dân tộc giới thiệu
với thế giới, chính sự chủ động hành động bảo vệ đã làm bật lên tính cách, cùng
sự yêu quí của họ với nghê thuật dân tộc. Thông qua đó thể hiện tính ý thức dân
tộc cao, đặc trưng của văn hoá gốc nông nghiệp.
Kinh kịch là sự tổng hợp của nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau, mà mỗi yếu tố đều là tinh hoa của văn hoá dân tộc Trung Quốc. Mặt nạ Kinh kịch cũng là một trong số đó. Bên cạnh sự nổi tiếng của thư pháp và tranh thuỷ mặc, nghệ thuật vẽ mặt nạ Kinh kịch cũng được xếp vào nghệ thuật “hoạ”. Thông qua mặt nạ, lối tư duy trừu tượng, hình tượng hoá đặc trưng văn hoá gốc nông nghiệp cũng được thể hiện rõ. Ngoài ra, nghệ thuật vẽ mặt nạ còn bật lên sự tỉ mỉ, cầu kì chỉnh chu, khéo léo đặc trưng của người Trung Quốc. Nhưng có thể nói, tính cách của người Trung Quốc được thể hiện rõ nhất không thông qua chiếc mặt nạ, mà qua cách họ sử dụng chúng. Từ lối tư duy chọn vẽ mặt nạ lên mặt người, cho đến sự khôn khéo, tư lợi trong việc kinh doanh hình ảnh truyền thống đều chỉ rõ tính thế tục của họ.
Bởi vậy, có thể nhận định
rằng nghệ thuật biểu diễn, chính là sự biểu hiện bên ngoài một cách rất rõ ràng
của một nền văn hoá. Nghệ thuật đến từ việc thoả mãn nhu cầu giải trí của con
người. Và nghệ thuật biểu diễn chính là hiện thực hoá tư tưởng của con người.
Xem xét một loại hình nghệ thuật cũng là một trong những yếu tố cần thiết để
tìm hiểu và phân tích về một nền văn hoá nào đó.
4. Tài liệu tham khảo
1. Trung Hoa đất nước con người – Lâm Ngữ Đường – NXB Văn
hoá thông tin 2001
4. Kinh kịchTrung Quốc – Nghệ thuật đặc sắc Á Đông - http://reds.vn/index.php/nghe-thuat/san-khau/2873-kinh-kich-trung-quoc
6. Trung Quốc bảo tồn và phát triển loại hình nghệ thuật Kinh
kịchtruyền thống - http://www.vietravel.com.vn/vn/tin-tuc/21-2772-trung-quoc-bao-ton-va-phat-trien-loai-hinh-nghe-thuat-kinh-kich-truyen-thong.aspx
7. Một chút về nghệ thuật vẽ mặt nạ Kinh kịch- http://maskcollection.blogspot.com/2013/09/mot-chut-ve-nghe-thuat-ve-mat-na-kinh.html
8. Mặt nạ Kinh kịchhay cách người Trung Quốc kiếm tiền từ di
sản - http://maskcollection.blogspot.com/2013/09/mat-na-kinh-kich-hay-la-cach-nguoi.html
Ngoài ra, trong bài rất nhiều phần, tôi copy toàn bộ nội dung của http://maskcollection.blogspot.com. Xin chân thành cảm ơn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét