Bắt nguồn từ nhận thức về xã hội, triết lý âm dương là
sự khái quái về vũ trụ để giải thích những hiện tượng xung quanh của người Á
Đông. Nguồn gốc của triết lý này được đặt trên ba giả thiết khác nhau, gồm được
sang tạo bởi Phục Hy, bời phái âm dương gia và theo quan điểm Trần Ngọc Thêm từ
dân gian khu vực phương nam.
Thời nhà Hán, theo Khổng An Quốc và Lưu Hâm cho rằng Phục Hy
là người có công sáng tạo triết lý âm dương. Một số
người khác cho rằng đó là công lao của "âm dương gia", một giáo phái
của Trung Quốc. Tuy nhiên hai giả thuyết trên đều không có cơ sở khoa học vì Phục
Hy là một nhân vật thần thoại, không có thực. Về phái âm dương gia được hình
thành vào thế kỷ thứ 3, tức là sau Khổng Tử đến hai thế kỷ, mà vào thời Khổng Tử
đã có Kinh Dịch, có âm dương bát quái. Điều này cho thấy phái âm dương gia chỉ
vận dụng âm dương để giải thích địa lý - lịch sử và vận dụng ngũ hành để tạo ra
“Ngũ đế đức”.
Hiện
nay các nghiên cứu khoa học liên ngành của Việt Nam và Trung Quốc đã kết luận rằng
"khái niệm âm dương có nguồn gốc phương Nam". ("Phương Nam"
ở đây bao gồm vùng nam Trung Hoa, từ sông Dương Tử trở xuống và vùng Việt Nam)
Những dẫn chứng cho kết luận này đã lý giải cho nhiều yếu tố khác nhau, như việc
vật tổ cặp đôi (Rồng –Tiên) của người Việt cổ, trong khi người Hán chỉ có một
là thần Nữ Oa vv….
Cư dân
phương nam sinh sống bằng nông nghiệp nên quan tâm số một của họ là sự sinh sôi
nảy nở của hoa màu và con người. Sinh sản của con người thì do hai yếu tố: cha
và mẹ, nữ và nam; còn sự sinh sôi nảy nở của hoa màu thì do đất và trời -
"đất sinh, trời dưỡng". Chính vì thế mà hai cặp "mẹ-cha",
"đất-trời" là sự khái quát đầu tiên trên con đường dẫn đến triết lý
âm dương.
Về mặt
ngôn ngữ học, "âm dương" là phát âm của yin yang trong tiếng Hán,
nhưng chính tiếng Hán để chỉ khái niệm âm dương lại vay mượn từ các ngôn ngữ
phương Nam trước đây. Từ yang
(dương) trong tiếng Hoa được phiên âm từ yang (= trời, giàng) của các tiếng
Đông Nam Á, còn yin (âm) thì có thể thấy là được phiên âm từ yana, ina (= mẹ) của
các ngôn ngữ phương Nam. Cặp từ “mẹ-trời” không thuộc cùng một cặp đối lập, bởi
vì truyền thống tư duy tổng hợp ¬ ghép “mẹ” với “trời” để tổng hợp được cả hai
cặp “mẹ-cha” và “đất-trời” là hai quá trình sinh sản quan trọng nhất: sản sinh
ra con người và sản sinh ra mùa màng. Cũng giống như là để tổng hợp được các
quan hệ hành động có liên quan như quan hệ ông-cháu và cha-con (=ông con),
cô-cháu và mẹ-con (=cô con), xem-diễn và nghe-hát (=xem hát).
Trong
quá trình phát triển, triết lý này đã Trung Hoa tiếp nhận qua thời kỳ"Nam
tiến", là thời kỳ mở rộng từ lưu vực sông Hoàng Hà (phía bắc) xuống phía
nam sông Dương Tử. Trong quá trình nam tiến, người Hán đã tiếp thu triết lý âm
dương của các cư dân phương nam, rồi phát triển, hệ thống hóa triết lý đó bằng
khả năng phân tích của người du mục làm cho triết lý âm dương đạt đến hoàn thiện
và mang ảnh hưởng của nó tác động trở lại cư dân phương nam.
Triết lý âm dương dù bắt nguồn từ đâu thì hiện tại đã
trở thành một trong những sản phẩm và lý thuyết quan trọng trong văn hóa của
mình. Việc xác định nguồn gốc triết lý này nhằm giúp làm sáng tỏ và giải thích thỏa đáng
nhiều vấn đề có tính quy luật của hiện tại.
Dần dần
ngoài cặp đối lập ban đầu, triết lý âm dương đã được cụ thể hóa sang nhiều cặp
đối lập khác nhau giải thích cho những khái niệm trừu tượng, như cách đặt nó
vào hệ thống để giải nghĩa cho chúng. Ví dụ như "lạnh-nóng", rồi cặp
"lạnh-nóng" lại là cơ sở để suy tiếp như về phương hướng:
"phương bắc" lạnh nên thuộc âm, "phương nam" nóng nên thuộc
dương; về thời tiết: "mùa đông" lạnh nên thuộc âm, "mùa hè"
nóng nên thuộc dương; về thời gian: "ban đêm" lạnh nên thuộc âm,
"ban ngày" nóng nên thuộc dương. Nếu tiếp tục suy diễn nữa thì: đêm
thì tối nên "tối" thuộc âm, ngày thì sáng nên "sáng" thuộc
dương; tối có màu đen nên "màu đen" thuộc âm, ngày sáng thì nắng
"đỏ" nên "màu đỏ" thuộc dương.
Tuy vậy,
các cặp đối lập chưa phải là nội dung chính của triết lý âm dương. Triết lý âm
dương không phải là triết lý về các cặp đối lập. Tất cả các dân tộc trên thế giới
đều có các phạm trù đối lập nhau (ngôn ngữ của tất cả các dân tộc đều có từ
trái nghĩa). Điều quan trọng của triết lý âm dương chính ở bản chất và quan hệ
của hai khái niệm âm dương. Đó chính là điều khác biệt triết lý âm dương với
các triết lý khác. Đặc điểm của triết lý âm dương đều tuân theo hai quy luật cơ
bản. Đó là quy luật về bản chất của các thành tố và quy luật về quan hệ giữa
các thành tố.
Quy luật về bản chất của các thành tố
Không
có gì hoàn toàn âm hoặc hoàn toàn dương, và trong âm có dương, trong dương có
âm.
Quy luật
này cho thấy việc xác định một vật là âm hay dương chỉ là tương đối, nhưng lại
rõ ràng. Mọi khái niệm thời gian đều có trước có sau; mọi vật thể không gian đều
có trên dưới, trái phải, trong ngoài…tức là đã có âm dương. Trong vũ trụ không
có sự vật, hiện tượng chứa cả bản chất âm lẫn dương, âm với dương tuy hai mà một,
người xưa gọi đó là tình trạng “lưỡng nhất”. Chính bởi vì vật nào cũng chứa cả
âm lẫn dương cho nên nếu muốn xác định xem một vật thiên về âm hay dương thì mới
phải đặt nó trong quan hệ so sánh. Ví dụ về trong âm có dương: đất lạnh nên thuộc
âm nhưng càng đi sâu xuống lòng đất thì càng nóng; về trong dương có âm: nắng
nóng thuộc dương, nhưng nắng nhiều sẽ có mưa nhiều (hơi nước bay lên) làm nên
mưa lạnh thuộc âm.
Muốn
xác định được tính chất âm dương của một sự vật, hiện tượng thì trước hết phải
xác định được đối tượng so sánh, sau đó phải xác định được cơ sở so sánh. Màu
trắng so với màu đỏ thì là âm, nhưng so với màu đen thì là dương. Ví dụ, nước
so với đất thì, về độ cứng thì nước là âm, đất là dương; nhưng về độ linh động
thì nước là dương, đất là âm. Cũng có thể xác lập được mức độ âm dương cho nhiều
hệ; ví dụ, về màu sắc thì đi từ âm đến dương ta có đen-trắng-xanh-vàng-đỏ (đất
"đen" sinh ra mầm lá "trắng", lớn lên thì chuyển thành
"xanh", lâu dần chuyển thành lá "vàng" và cuối cùng thành
"đỏ").
Quy luật về quan hệ giữa các thành tố
Âm
dương gắn bó mật thiết với nhau, vận động và chuyển hóa cho nhau, và âm phát
triển đến cùng cực thì chuyển thành dương, dương phát triển đến cùng cực thì
chuyển thành âm.
Ngày và
đêm, tối và sáng, mưa và nắng, nóng và lạnh,... luôn chuyển hóa cho nhau. Cây
màu xanh từ đất "đen", sau khi lớn chín "vàng" rồi hóa
"đỏ" và cuối cùng lại rụng xuống và thối rữa để trở lại màu
"đen" của đất. Từ nước lạnh (âm) nếu được đun nóng đến cùng cực thì bốc
hơi lên trời (thành dương), và ngược lại, nếu được làm lạnh đến cùng cực thì nó
sẽ thành nước đá (thành âm).
Ứng với
hai quy luật trên được cho là hai qui luật trong logic học, đại diện cho cách
tư duy tây phương. Đó là quy luật về bản chất của thành tố - luật đồng nhất, và
quy luật về quan hệ giữa các thành tố - luật lý do đầy đủ mà hệ quả của nó là
luật nhân quả.
Luật đồng nhất (bản chất A = A) chỉ đúng khi sự
vật và hiện tượng đứng yên, mà điều này thì không biện chứng vì sự vật và hiện
tượng luôn vận động (đổi mới), mà nếu vận động thì nó không thể đồng nhất với
chính nó được nữa. Trong khi đó, quy luật về bản chất của triết lý âm dương là
trong âm có dương, trong dương có âm, tức là trong A đã có B rồi. Luật lý do đầy
đủ xác lập nên luật nhân quả cũng chỉ xem xét sự vật và hiện tượng trong sự cô
lập, không liên hệ với môi trường xung quanh, trong khi trên thực tế, sự vật và
hiện tượng tồn tại trong không gian và quan hệ với các sự vật và hiện tượng
khác.. Quan hệ nhân quả cũng chỉ xác định được trong sự cô lập một mảnh của hiện
thực ra khỏi mối quan hệ với môi trường xung quanh; nhưng điều này thì phi tổng
hợp: sự thực, vật chất luôn tồn tại trong không gian, mà đã nằm trong quan hệ
không gian nhiều chiều thì khái niệm nhân quả trở thành tương đối (một sự vật,
hiện tượng có thể là “nhân” của cái này nhưng sẽ là “quả” của cái khác, không
khi nào có thể xác định được cái khởi đầu tuyệt đối và cái tận cùng tuyệt đối).
Trong khi đó thì theo luật về quan hệ giữa các thành tố của triết lý âm dương,
âm phát triển đến cùng cực thì chuyển hóa thành dương, âm dương chuyển hóa bất
tận, vô thủy (không có bắt đầu) vô chung (không có kết thúc).
Hai quy
luật của lôgíc học là sản phẩm của lối tư duy phân tích, chú trọng đến các yếu
tố biệt lập của văn hóa du mục; trong khi quy luật của triết lý âm dương là điển
hình của tư duy tổng hợp, chú trọng đến các quan hệ của văn hóa nông nghiệp.
Tất cả
các quy luật trên được thể hiện đầy đủ trong biểu tượng âm dương với hình tròn
được vẽ bởi hai màu trắng đen/ đỏ đen/ đỏ xanh, lồng vào nhau, giữa chúng lại
có một vòng tròn của màu còn lại. Tuy nhiên biểu tượng này, là sơ đồ không đầy
đủ của triết lý âm dương, chứ không phải là bản thân triết lý âm dương. Thực tế,
triết lý âm dương là sự khái quát hóa vận động có quy luật của vạn vật, một sự
vận động liên tục, không ngừng nghỉ, không bao giờ lặp lại hoàn toàn: Nóng chuyển
thành lạnh, lạnh chuyển thành nóng, nhưng cái nóng năm nay khác hẳn cái nóng
năm qua. Người Việt xưa đã nhận xét rất đúng rằng Có dại mới nên khôn để rồi lại Hết khôn dồn đến dại; quanh đi quẩn
lại chỉ có “dại” với ‘khôn” nhưng không phải là một vòng tròn khép kín không lối
thoát. Bởi Không cái dại nào giống cái dại
nào. Biểu tượng âm dương chỉ nói lên được tính quy luật của sự vận động âm
dương chuyển hóa (cái tương đồng) mà không phản ánh được sự dị biệt của nó.
Sự phát
triển của biểu tượng này đến khái niệm hào âm, hào dương được cho là từ cặp
"mẹ-cha" (nữ-nam, cái-đực). Giống cái có khả năng mang thai (tuy một
mà hai), nên về loại số, thì số "chẵn" thuộc âm; giống đực không có
khả năng ấy, một là một, nên số "lẻ" thuộc dương. Điều này giải thích
tại sao hào dương là một vạch dài (|), còn hào âm là hai vạch ngắn (:).
Triết
lý âm dương là cơ sở để xây dựng lên hai hệ thống triết lý khác đó là hệ thống
"tam tài, ngũ hành" và "tứ tượng, bát quái", cũng là hai hướng
phát triển khác nhau trong quá trình phát triển của triết lý này, tạo nên tính
dân tộc của triết lý. Xét riêng ở phương Đông thì từ bắc xuống nam, phía bắc
Trung Quốc nặng về phân tích hơn tổng hợp, còn phía nam thì ngược lại, nặng về
tổng hợp hơn phân tích. Triết lý âm dương bắt nguồn từ phương Nam, nhưng đối với
các dân tộc Đông Nam Á, do tính phân tích yếu nên họ chỉ lại ở tư duy âm dương
sơ khai mang tính tổng hợp. Trong khi đó khối Bách Việt đã phát triển và hoàn
thiện nó. Tổ tiên người Hán cũng vậy, sau khi tiếp thu triết lý âm dương sơ
khai, họ cũng phát triển nó nhưng do năng lực phân tích của họ mạnh hơn năng lực
phân tích của người Bách Việt mà từ triết lý âm dương ban đầu, người Bách Việt
và người Hán đã xây dựng nên hai hệ thống triết lý khác nhau.
Ở
phương Nam, với lối tư duy mạnh về tổng hợp, người Bách Việt đã tạo ra mô hình
vũ trụ với số lượng thành tố lẻ (dương): hai sinh ba (tam tài), ba sinh năm
(ngũ hành). Chính vì thế mà Lão Tử, một nhà triết học của nước Sở (thuộc phương
Nam) lại cho rằng: "nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật".
Tư duy số lẻ là một trong những nét đặc thù của phương Nam. Trong rất nhiều
thành ngữ, tục ngữ Việt Nam, các số lẻ như 1, 3, 5, 7, 9 xuất hiện rất nhiều.
Ví dụ: "ba mặt một lời"; "ba vợ, bảy nàng hầu"; "tam
sao, thất bản"...
Ở
phương Bắc, với lối tư duy mạnh về phân tích, người Hán đã gọi âm dương là lưỡng
nghi, và bằng cách phân đôi thuần túy mà sinh ra mô hình vũ trụ chặt chẽ với số
lượng thành tố chẵn (âm). Chính vì vậy Kinh Dịch trình bày sự hình thành vũ trụ
như sau: "lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái biến
hóa vô cùng" (hai sinh bốn, bốn sinh tám). Người phương Bắc thích dùng số
chẵn; ví dụ, "tứ đại", "tứ mã", "tứ trụ",... Lối
tư duy như vậy, hoàn toàn không có chỗ cho ngũ hành - điều này cho thấy, quan
niệm cho rằng "âm dương - ngũ hành - bát quái" chỉ là sản phẩm của
người Hán có lẽ là một sai lầm.
Thuyết ngũ hành về căn bản cũng là một cách biểu
thị luật mâu thuẫn đã giới thiệu trong thuyết âm dương, nhưng bổ xung và làm
cho thuyết âm dương hoàn bị hơn, để xem xét mối tương tác và quan hệ của vạn vật.
Ngũ hành xây dựng là mô hình 5 yếu tố về cấu trúc không gian vũ trụ, cho thấy
rõ nguồn gốc nông nghiệp của Ngũ hành, khi đặt hành Thổ làm trung tâm với ngụ ý
xem đất là tài nguyên quan trong nhất. Được sinh ra từ tư duy số lẻ, đặc thù của
người nông nghiệp phương Nam, phát triển qua thuyết tam tài tạo nên 2 bộ ba:
kim – mộc – thổ và thủy – hỏa – thồ, thuyết ngũ hành đã vận dụng tự nhiên một
cách triệt để trong bản thân mình.
Ngũ hành là : Kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Người
xưa cho rằng mọi vật trong vũ trụ đều chỉ cho 5 chất phối hợp nhau mà tạo nên.
Theo tính chất thì thuỷ là lỏng, là nước thì đi xuống, thấm xuống. Hoả là lửa
thì bùng cháy, bốc lên. Mộc là gỗ, là cây thì mọc lên cong hay thẳng. Kim là
kim loại, thuận chiều hay đổi thay. Thổ là đất thì để trồng trọt, gây giống được.
Về mặt ngôn ngữ, chữ Ngũ thường chỉ hiểu là số
5 hoặc là thứ Năm, nhưng đó mới là lối hiểu thông thường. Còn một nghĩa nữa sâu
hơn chỉ Thiên Địa. Lúc đó 5 là số thành của 3+2 tức là "tham thiên lưỡng địa"
3 Trời, 2 Đất. Hiểu như thế mới đúng với Đạo Âm Dương một lẻ một chẵn, một Đất
một Trời, có ra mà cũng có vô. Do đó 5 được dùng làm số trung tâm bao hàm ý Tiềm
Thể Tâm Linh.
Hành là đi, đi là ra nên phải có hướng có nơi
tìm về (phản phục). Đi ra phải hướng về trung tâm. Trung tâm là Tròn là Trụ,
còn đi ra là Vuông là Vũ; hiểu như thế mới đúng lược đồ căn cơ hai chữ vũ trụ của
quan niệm thời gian uyên nguyên, tức là ý thức tầm quan trọng của Thổ. Có hiểu
được tầm quan trọng của Thổ mới nắm được then chốt; nếu không sẽ gây lộn xộn,
đánh mất yếu tố căn cơ như thường thấy.
Học thuyết Ngũ hành diễn giải sự sinh hoá của
vạn vật qua hai nguyên lý cơ bản còn gọi là tương sinh và tương khắc trong mối
tương tác và quan hệ của chúng. Trong mối quan hệ Sinh thì Mộc sinh Hỏa; Hỏa
sinh Thổ; Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc. Trong mối quan hệ Khắc
thì Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc. Như
vậy tương sinh, tương khắc, tương thừa, tương vũ kết hợp thành hệ chế hoá, biểu
thị mọi sự biến hóa phức tạp của sự vật.
Luật tương sinh: Tương sinh có nghĩa là giúp đỡ
nhau để phát triển. Đem ngũ hành liên hệ với nhau thì thấy 5 hành có quan hệ
xúc tiến lẫn nhau, nương tựa lẫn nhau. Trong luật tương sinh của ngũ hành còn
bao hàm ý nữa là hành nào cũng có quan hệ trên hai phương diện: Cái sinh ra nó
và cái nó sinh ra, ứng dụng vào y học còn gọi là mẫu và tử.
Luật tương khắc: Tương khắc có nghĩa là áp chế
lẫn nhau. Sự tương khắc có tác dụng duy trì sự cân bằng, nhưng nếu tương khắc
thái quá thì làm cho sự biến hóa trở thành bất thường. Trong tương khắc, mỗi
hành cũng lại có hai mối quan hệ: Cái khắc nó và cái nó khắc. Từ quy luật tương
khắc, bàn rộng thêm ta có tương thừa (nghĩa là khắc quá đỗi) và tương vũ (nghĩa
là khắc không nổi mà bị phản phục lại).
Luật chế hóa: Chế hoá là chế ức và sinh hoá phối
hợp với nhau. Trong chế hoá bao gồm cả hiện tượng tương sinh và tương khắc. Hai
hiện tượng này gắn liền với nhau.
Hiện tượng tương sinh, tương khắc không tồn tại
độc lập với nhau. Trong tương khắc luôn có mầm mống của tương sinh, trong tương
sinh luôn có mầm mống của tương khắc. Do đó vạn vật luôn luôn tồn tại và phát
triển.
Thuyết ngũ hành không phải là 5 yếu tố mà chính
xác là 5 loại vận động, quan hệ với tính khái quát rất cao: Thủy, hỏa… không chỉ
và không nhất thiết là “nước”, “lửa” mà còn là rất nhiều thứ khác”. Do tính trừu
tượng và khái quát cao ấy, muốn giải thích các quan hệ ngũ hành sinh khắc cho dễ
hiểu thì xưa nay, từ các sách tử vi nhập môn cho đến các từ điển triết học đều
vẫn phải dùng các ví dụ trực quan kiểu “nước dập tắt lửa” cả; tuy nhiên chúng
tôi đã luôn nói rõ rằng đó chỉ là ví dụ mà thôi, bởi lẽ thủy, hỏa… không chỉ và
không nhất thiết là “nước”, “lửa” mà còn là rất nhiều thứ khác.
Từ sơ đồ đến thực tế còn phải bổ sung thêm các
sơ đồ khác, thêm chất liệu, thêm sự vận dụng… Giữa sơ đồ mang tính nguyên lý
“thủy khắc hỏa” với thực tế “nước gáo lửa xe” (trường hợp nước ít, lửa nhiều,
nước không dập tắt được lửa) là vấn đề vận dụng, là hậu quả sự tác động của quy
luật chuyển hóa giữa lượng và chất.
Năm nguyên tố và các nguyên lý cơ bản của Ngũ
hành cũng đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều lĩnh vực hoạt động của người Trung Hoa
từ thời cổ đại đến nay trong nhiều lĩnh vực như hôn nhân và gia đình, âm nhạc,
hội hoạ, kiến trúc, y học cổ truyền, quân sự v.v. Ngũ hành được ứng dụng vào
Kinh Dịch, có từ thời kỳ nhà Chu (thế kỷ 12 TCN đến năm 256 TCN), một cuốn sách
được coi là tác phẩm vĩ đại nhất trong lịch sử Trung Hoa về triết học.
1.
Thuyết bát
quái âm
dương
Từ triết lý âm dương theo hướng gọi âm dương
là lượng nghi, và bằng phép phân đôi thuần túy đã tạo nên mô hình vũ trụ chặt
chẽ với số thành tố chẵn. Như 2 sinh 4 (tứ tượng), 4 sinh 8 (bát quái), 8 sinh
64 ( tứ thập lục quái đồ) , mà cách tư duy này khác với tư duy người làm nông
nghiệp phương Nam thích dùng số lẻ, trong khi đó qua thống kê cho thấy người
phương Bắc lại ưa dùng số chẵn này. Như tứ đức, tứ hải, tứ trụ, tứ thư, lục bộ,
bát âm, bát bửu, bát tiên…
Bát quái (zh: 八卦, bính
âm: Bagua; Wade-Giles: pakua; Peh-oe-ji: pat-Koa, nghĩa là "tám biểu tượng")
là 8 quẻ được sử dụng trong vũ trụ học Đạo giáo như là đại diện cho các yếu tố
cơ bản của vũ trụ, được xem như là một chuỗi tám khái niệm có liên quan với
nhau. Mỗi quẻ gồm ba hàng, mỗi hàng là nét rời (hào âm) hoặc nét liền (hào
dương), tương ứng đại diện cho âm hoặc dương.
Bát quái có liên hệ đến triết học thái cực và
ngũ hành. Các mối quan hệ giữa các quẻ được thể hiện trong hai đồ hình là Tiên
Thiên Bát Quái hay còn gọi là Phục Hy bát quái, và Hậu Thiên Bát Quái hay còn gọi là Văn Vương bát quái. Bát quái
được ứng dụng trong thiên văn học, chiêm tinh học, địa lý, phong thủy, giải phẫu
học, gia đình, và những lĩnh vực khác. Bát quái Tiên thiên là loại hình phát
triển từ triết lý âm dương biểu diễn con đường từ thái dương đến thái âm, qua
miêu tả bằng các hào âm và hào dương chồng lên nhau. Trong khi đó bát quái Hậu
thiên mang tính chủ quan tự biên hơn, lấy hướng Tây Bắc làm trời, theo qui luật
do con người tự đặt nên. Bát quái Hậu thiên cũng là loại bát quái được sử dụng
trong Kinh Dịch, nền tảng của các triết lý bát quái Trung Hoa.
Kinh Dịch của Trung Quốc cổ đại có 64 quẻ được
tạo ra từ cách bắt cặp 8 quẻ của bát quái, và có những lời bình giải cho từng
quẻ này. Bát quái trong Kinh Dịch được giải thích có thể hình thành từ 2 nguồn.
Đầu tiên là từ triết lý âm dương. Những mối tương quan trong triết lý này được
cho là của Phục Hy. Vô cực sanh hữu cực, hữu cực thị thái cực - Thái Cực sanh
lưỡng nghi, tức âm dương - Lưỡng nghi sanh tứ tượng: tức thiếu âm, thái âm, thiếu
dương, thái dương -Tứ tượng diễn bát quái, bát bát lục thập tứ quái. Nguồn thứ
2 là từ Văn Vương nhà Chu: "Khi thế giới bắt đầu, đã có trời và đất. Trời
phối hợp với đất sinh ra tất cả mọi thứ trong thế giới. Trời là quẻ Càn và đất
là Khôn. Sáu quẻ còn lại là con trai và con gái của họ." Tuy nhiên, cũng
như triết lý âm dương, không có cơ sở chứng minh Phục Hy là một nhân vật có thật,
nên nguồn gốc của Bát quái được xem là do Chu Văn Vương sáng tạo nên.
Bát quái có liên quan đến ngũ hành thông qua
các quẻ, được các nhà phong thủy và y học cổ truyền Trung Quốc sử dụng. Cụ thể
quái khảm (nước) và quái ly (lửa) tương ứng trực tiếp với hành thủy và hành hỏa.
Hành thổ tương ứng với quái Khôn (địa) và Cấn (núi). Hành mộc tương ứng với
quái Tốn (gió) và Chấn (sấm). Hành kim tương ứng với quái càn (trời) và đoài (đầm).
Lục Thập Tứ Quái Đồ được hình thành nhờ vào 64
quái (quẻ). Sáu mươi bốn quẻ này có được là nhờ vào sự kết hợp của các quẻ đơn
với nhau mà thành. Trong Trùng quái (quẻ kép), luận về Tam Tài thì mỗi tài lúc
này là hai vạch. Tài Địa là hào 1 và hào 2, tài Nhân là hào 3, hào 4 cuối cùng
tài Thiên là hào 5, hào 6. Mỗi tài 2 hào, mỗi hào hai thể hoặc âm hoặc dương.
Bên cạnh đó, riêng với trùng quái, còn có khái niệm nội quái và ngoại quái. Nội
quái là một đơn quái nằm bên dưới của ngoại quái. Ngoại quái là một đơn quái
khác nằm bên trên nội quái. Cả nội quái hay ngoại quái đều là thành tố trong một
chỉnh thể và có những ảnh hưởng, tác động lẫn nhau để dẫn đến tính chất của một
quẻ. Sáu mươi bốn trùng quái này cũng có 2 sự kết hợp theo 2 trình tự khác nhau
mà tạo nên Lục Thập Tứ Quái Đồ theo đức Phục Hy, gọi là Phụ Hy Lục Thập Tứ Quái
Đồ và Lục Thập Tứ Quái Đồ theo đức Văn Vương, gọi là Văn Vương Lục Thập Tứ Quái
Đồ.
Nếu Bát Quái Đồ là hình đồ phản ánh quy luật vận
động của đạo tự nhiên thì Lục Thập Tứ Quái Đồ là hai đồ hình phản ánh quy luật
vận động của đạo trong nhân sinh. Mỗi quẻ trong Lục Thập Tứ Quái là tượng trưng
cho một tính chất của nhân sinh. Ví dụ như sau quẻ Càn là quẻ Quải, tức Trạch
Thiên Quải. Quẻ này tượng cho hình ảnh nước vượt lên cao quá trời, ý nói có sức
quyết liệt, nổ lực vô cùng. Sự vận hành của 64 quẻ trong Văn Vương Lục Thập Tứ
Quái Đồ theo một trình tự của nhân sinh, một trình tự của phức tạp, đa nguyên
và biến hóa khôn lường của cõi nhị nguyên.
Giống nhau
Xem vũ
trụ là một thể thống nhất, một thái cực là đặc điểm chung của nhận thức Đông
phương. Và nguồn góc trực tiếp từ triết lý âm dương với hai tính chất tương
sinh tương khắc.
Ngũ
hành và bát quái đều dựa trên những cặp đối lập, như thủy – hỏa, mộc – kim
trong ngũ hành, và càn - khôn, khảm – ly
trong Bát quái, để giải thích bản thể của vũ trụ và vạn vật, coi thế giới là nhất
nguyên nhất thể.
Được sáng tạo nên nhờ quan sát tự nhiên, đi qua con đường
phân tích hoặc tổng hợp. Mà không phải Ngũ hành chỉ là hệ thống khái quái từ tự
nhiên và Bát quái là khái niệm được nhân tạo để nhận thức về thế giới.
Dù 5 hay 8 nguyên tố, ý nghĩa của Ngũ hành và Bát quái
để để giải thích, nhận thức về vũ trụ và vạn vật, xem thế giới là một thể thống
nhất. Nhưng bằng cách diễn dịch khác nhau, mô tả thế giới đã biến hóa, được phức
tạp hóa thành 5 phần, 8 phần.
Ngoài phân tích, giải nghĩa hiện tượng sự vật, cả hai
được dùng trong nhiều lĩnh vực, nổi bật gồm: kiến trúc, y học, ẩm thực, võ thuật…
Khác nhau
|
Âm dương ngũ hành
|
Bát quái (bát quái hậu thiên)
|
Nguyên tố
|
5 nguyên tố gồm: thủy, hỏa, mộc, kim,
thổ
|
8 nguyên tố, gồm: càn, khôn, chấn, cấn,
đoài, ly, khảm, tốn.
|
Trung tâm
|
Hành thổ, điều hòa cà cai quản
Nghĩa là lấy đất làm nông nghiệp làm trung tâm, coi trọng nguồn gốc nông nghiệp phương Nam. |
Không có trung tâm
Dân gian và Kinh Dịch lấy biểu tượng âm dương làm trung tâm, chỉ miêu tả nguổn gốc. Nghĩa là lấy vũ trụ rộng lớn làm trung tâm, cái sinh ra bát quái. |
Cặp đối
(tính tương đối) |
Thủy khắc hỏa
Kim khắc mộc |
Càn đối khôn
Khảm đối ly |
Nguồn gốc
|
Lối tư duy tổng hợp
Tư duy số lẻ Quan điểm tam tài : thủy - hỏa - thổ và kim - mộc - thổ |
Lối tư duy phân tích
Tư duy số chẵn ( nhị nguyên) Quan điểm lưỡng nghi: trời - đất |
Phương hướng
|
Thủy - phương Bắc
Hỏa - phương Nam Mộc - phương Đông Kim - phương Tây Thổ - trung tâm |
Khảm - phương Bắc
Ly - phương Nam Chấn - phương Đông Đoài - phương Tây |
Do nguồn
gốc và các biểu hiện cơ bản của Ngũ hành và Bát quái khác nhau, nên các biểu hiện
khác của hai lý thuyết đều khác nhau, dù cho giữa chúng có mối liên hệ với
nhau. Một số yếu tố lồng ghép vào nhau, như hành Mộc ứng với Tốn, Chấn; hành Thổ
ứng với Khôn, Cấn; hành Kim ứng với Càn, Đoài, hành Thủy ứng với Khảm và hành Hỏa
ứng với Ly, và nhiều biểu hiện khác…
KẾT LUẬN
Triết
lý âm dương bản thân đã là một
trong những triết lý quan trọng của người Á Đông, hàm chứa nhiều giá trị không
chỉ về lý luận mà cả về ý nghĩa thực tiễn. Từ triết lý âm dương, sản phẩm chung
của người Á Đông, nhằm giải thích về vũ trụ quan, cách vận hành của vũ trụ và vạn
vật, dựa vào những điều kiện khác nhau, những dân tộc khác nhau mà tiếp tục được
phát triển trở thành những lý thuyết nền tảng của các nền văn hóa đó. Mỗi một
quốc gia có cách giải thích, có cách vận hành và ứng dụng lý thuyết này theo một
cách khác nhau, mang lại ý nghĩa riêng. Điều này thậm chí còn thể hiện chiều rộng
và chiều sâu của một nền văn hóa.
Hai hướng phát triển dựa trên hai luồng tư duy khác
nhau đã tạo nên thuyết âm dương ngũ hành và thuyết bát quái âm dương, đã chứng
minh rõ ràng cho sự độc đáo của các nền văn hóa cùng tiếp thu một triết lý, mà
vẫn sáng tạo nên những đặc trưng cho mình. Và việc vận dụng chúng trong đời sống
lại là cả một chuỗi các câu chuyện dài khác, mà thông qua đó chắc chắn sẽ càng
thấy sự huyền diệu, độc đáo của từng dân tộc khác nhau, cụ thể là Việt Nam và
Trung Quốc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Trần Ngọc Thêm, Tìm về
bản sắc văn hóa Việt Nam, nxb. TPHCM, VN
2.
Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt nam, nxb giáo dục, 1999.
3.
Đối thoại cùng bạn đọc về
âm dương ngũ hành - http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/ly-luan-van-hoa-hoc/vu-tru-quan-phuong-dong/56-tran-ngoc-them-doi-thoai-cung-ban-doc-ve-am-duong-ngu-hanh.html
4.
Wikimedia: Âm Dương, Ngũ hành, Bát quái
5.
Nguhanh.org – tìm hiểu về âm dương ngũ hành
http://longnguyenthanh.wordpress.com - từ bái
quái đồ đến lục thập tứ quái đồ
....................................................................................................................................
Nhận định cá nhân: Triết lý âm dương hiện nay chủ đạo được xem là có nguồn gốc từ phương Nam (trong đó có khu vực tộc người Việt sinh sống). Nhưng dựa vào những điều kiện khác nhau mà phát triển thành các hướng khác nhau. Đầu tiên là điều kiện về tự nhiên (từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng), sau đó và quan trọng hơn là điều kiện xã hội - văn hóa (trực tiếp - gián tiếp giáo dục con người). Từ đó mà tạo nên cách sử dụng khác nhau.
Tuy vậy, vẫn phải xác định rõ hai điều. Thứ nhất, Trung Hoa đã có công hết sức lớn là hệ thống và ghi chép toàn bộ sản phẩm đó. Thứ hai, không chỉ tiếp thu mà người Hoa Hạ đã sáng tạo và tiếp biến tư tưởng này hình thành nên bát quái, Kinh Dịch và các sản phẩm đi kèm khác, sau phát triển triết lý này vô cùng hiệu quả, thậm chí truyền bá sang các nước khu vực trong đó có Việt Nam.
...................................................................................................................................
Cuối cùng, nhân dịp năm mới 2015, xin kính chúc các bạn một năm mới an khang thịnh vượng.
Và tuy sắp ra trường ĐHKHXH&NV TPHCM - khoa Văn hóa học, Tyara vẫn sẽ cố gắng tiếp tục viết về chuyên ngành Văn hóa học. Cám ơn các bạn đã theo dõi.